Ư nghĩa ngày Quân Lực Viẹt Nam Cộng
Ḥa 19/6
Phạm Phong Dinh
Ngày 20/07/1954 đánh dấu
ngày quốc hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi cộng sản Bắc
Việt cùng với thực dân Pháp kư kết Hiệp định Genève chia đôi đất
nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới
Bắc Nam. Đó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ
cộng sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu
dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau t́m đủ mọi cách để được
đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng
Ḥa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng
chính trị thế giới.
Giữa bối cảnh một nửa đất nước
oằn oại rên siết trong gông cùm cộng sản, trong bóng đêm của dối trá và tội
ác, một nửa nước c̣n lại vừa phải đối phó với quân cộng sản
c̣n nằm mai phục trong các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với
những vấn đề ổn định nội bộ, Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, danh xưng lúc đó là Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiếp nhận di sản nghèo
nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi hương bàn giao lại, đảm nhận
trọng trách nặng nề bảo quốc an dân. Ngày 01/07/1955 Bộ Tổng Tham Mưu của
Quân Đội Quốc Gia Việt Nam chính thức h́nh thành, đánh dấu ngày khai sinh một
quân lực non trẻ mà đă dám chiến đấu chống lại cả một đại
khối cộng sản quốc tế hung hăn tràn xuống từ phương Bắc. Tên tội
đồ dân tộc, kẻ giết hàng triệu người mà miệng vẫn cười
Hồ Chí Minh, một cán bộ cao cấp của cộng sản quốc tế, cúi đầu
làm chó săn nhận vũ khí và thực hiện sách lược "Dùng người Việt giết
người Việt" của quan thầy Nga Sô và Trung Cộng, vơ vét thanh thiếu niên miền
Bắc đẩy vào miền Nam bắn dùng bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam thực hiện sách lược “Dùng người Miền Nam giết người
Miền Nam” tàn sát chính đồng bào ruột thịt của ḿnh.
Dưới thời
của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, sau
khi ông chính thức làm Tổng Thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ư 1955, Quân Đội Quốc
Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, với xác quyết
quân đội sẽ được phát triễn và tối tân hóa thành một đạo quân
mạnh để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương
Bắc. Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trong suốt lịch sử 20 năm chiến đấu
bảo vệ tổ quốc, tuy có những lúc thăng trầm nghiêng ngửa, có những lúc
thiệt hại nặng nề, nhưng những người chiến binh dũng cảm Việt
Nam Cộng Ḥa vẫn giữ vững ư chí chiến đấu, không chấp nhận chế
độ cộng sản, quyết đánh cho đến hơi thở và giọt máu cuối
cùng. Từ ngày 01/11/1963, sau khi một nhóm tướng lănh đảo chánh lật đổ
Tổng Thống Diệm, đất nước và quân đội Việt Nam Cộng Ḥa bị
suy yếu trầm trọng v́ t́nh trạng chỉnh lư tranh giành quyền lực liên miên giữa
các tướng lănh. Cộng Sản Bắc Việt nương cơ hội này lăm le tràn
xuống đánh dứt điểm miền Nam. Hồi tưởng lại hoàn cảnh đất
nước thật đen tối trước ngày 19/06/1965, vận mệnh của nước
Việt Nam Cộng Ḥa như sợi chỉ mỏng manh treo ngh́n cân trước làn sóng xâm nhập
đă bắt đầu ồ ạt với hàng trăm ngàn quân chính qui Bắc Việt đă
có mặt ở Miền Nam.
Về chính trị, t́nh h́nh đầy xáo trộn và bất
ổn. Những cuộc xuống đường dưới sự khích động của
những phần tử cộng sản nằm vùng và trà trộn liên miên xảy ra, mà hậu
quả hiển nhiên và tức th́ là sự rối loạn, khẩn trương của xă hội,
dân chúng lúc nào cũng lo âu trước thời cuộc hỗn độn. Cộng sản nhân
đó gia tăng những hoạt động tuyên truyền, phá hoại, lũng đoạn
hàng ngũ những người Quốc Gia. Ở nông thôn th́ Việt cộng gia tăng khủng
bố dân chúng, bắt cóc, thủ tiêu và ám sát dă man những viên chức xă ấp tận tụy
với chính nghĩa quốc gia, thậm chí những người dân vô tội dù chỉ tỏ
chút ngần ngừ hay biểu lộ thái độ không hợp tác, ủng hộ, là đă có
thể bị Việt cộng tuyên án tử h́nh và hạ sát. Bầu không khí sợ hăi, chết
chóc bao trùm khắp miền nông thôn, nhất là ở những cùng xa xôi hẻo lánh mà Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa chưa thể thiết lập nền an ninh vững chắc.
Về
mặt quân sự, lợi dụng lúc giao thời, chính phủ dân sự Việt Nam Cộng
Ḥa không có khả năng tập họp được sức mạnh của quân đội,
cộng sản liên tục cho binh đội xâm nhập Miền Nam, chuyển dạng thái chiến
tranh xâm lược từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận
đánh lớn để thử thách sức mạnh và ư chí chiến đấu của quân
dân Việt Nam Cộng Ḥa, điễn h́nh là những trận đánh B́nh Giả và Đồng
Xoài cuối năm 1964 và giữa năm 1965. Trong bối cảnh chính t́nh nhiễu nhương,
quân đội không được lănh đạo và chỉ huy thích đáng, đă đưa
đến thiệt hại rất nặng cho quân ta trong hai trận đánh này, mà chỉ trông
cậy vào trái tim nồng nàn t́nh đất nước t́nh đồng bào và chính thân xác của
các anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa mới có thể cắn
răng ngăn chống được cơn sóng dữ cộng sản đă mấp mé gần
ngưỡng cửa Sài G̣n.
Về mặt kinh tế, v́ chiến tranh tàn phá, đất
đai bị bỏ hoang, do đó mức sản xuất sút kém, đời sống dân chúng lệ
thuộc vào ngoại viện. Một đất nước từng xuất cảng gạo
mà phải nuốt nước mắt nhận những hạt gạo gọi là viện trợ
của nước ngoài. Trong khi đó cộng sản luôn t́m cơ hội cắt đứt
đường tiếp tế giữa nông thôn và thành thị, làm cho mức sinh hoạt của
xă hội ngày càng đắt đỏ và rất khó kiểm soát, gian thương lộng hành
trắng trợn. Người dân ở thành thị khốn khổ v́ nạn vật giá gia tăng
hàng ngày bao nhiêu, th́ người dân ở nông thôn càng oằn nặng dưới sự khủng
bố và bóc lột ghê rợn của cộng sản bấy nhiêu. Đóng góp nuôi quân, thuế
khóa nặng nề, dân công, sưu địch, con em bị bắt buộc cầm súng trong vùng
cộng sản kiểm soát đă là nguyên nhân thúc đẩy đồng bào liều chết
bỏ chạy ra vùng quốc gia để được quân đội bảo vệ và chính
quyền giúp đỡ.
Hoàn cảnh bi đát của Việt Nam Cộng Ḥa trước
ngày 19/06/1975 là như vậy. Đất nước đă bước đến mấp mé
bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất có
thể sẽ nằm dưới sự thống trị của cộng sản Hà Nội. Nhưng
những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không bao giờ cho phép điều
đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, một tập thể duy nhất có tổ
chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước
cơn quốc biến, nên đă đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng
nề cứu nguy đất nước và dân tộc. Cho đến gần giữa năm
1965, Hội Đồng Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă loại bỏ được
những thế lực phân chia sức mạnh quân đội, cùng chia xẻ trách nhiệm lănh
đạo và điều hành guồng máy quốc gia. Nhưng để tỏ rơ thiện chí
và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền Nam, ngày 05/05/1965, Hội Đồng
Quân Lực đă quyết định trao quyền lănh đạo đấ nước lại
cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm Quốc Trưởng,
Bác sĩ Phan Huy Quát làm Thủ Tướng. Nhưng cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày
11/06/1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận
định rằng t́nh h́nh đất nước đă đến lúc lâm nguy nếu người
quốc gia không mạnh mẽ hành động và t́m ra một con đường tức thời
nào đó. Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức mạnh của Quân
Đội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền lănh đạo
đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bằng tuyên cáo chính thức
như sau :
TUYÊN CÁO CỦA QUỐC TRƯỞNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG QUỐC
GIA LẬP PHÁP VÀ THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ VIỆT NAM CỘNG H̉A
Sau khi duyệt
lại t́nh trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau khi
đă xét lại và xác nhận rằng : những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện
tại không c̣n phù hợp với t́nh thế, sau khi đă hội ư cùng toàn thể tướng
lănh Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11/06/.1965, chúng
tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Ḥa, Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp,
Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa đồng thanh quyết định long trọng trao trả
lại cho Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa trách nhiệm và quyền hành lănh đạo
quốc gia đă được Hội Đồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu
theo Quyết Định số 8 ngày 05/05/1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 05/05/1965, Quyết Định
số 5 ngày 16/02/1965, Quyết Định số 6 ngày 17/02/1965 và Quyết Định số
4 ngày 16/02/1965.
Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng
địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa trong việc lănh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1.11.1963.
Làm
tại Sài G̣n ngày 11/06/1965 Phan Khắc Sửu Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Ḥa
Phan
Huy Quát Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa
Phạm Xuân Chiểu Chủ
Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp
Ngày 12/06/1965, trong một buổi họp
quy tụ tất cả những tướng lănh đang nắm những trọng trách trong
Quân Đội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến
Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Đồng Quân Lực đă
đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ
Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống),
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch
Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết
định như sau :
QUYẾT ĐỊNH THÀNH LẬP ỦY BAN LĂNH ĐẠO QUỐC
GIA - Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc
Trưởng, Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Ḥa
ngày 11.6.1965 trao trả trách nhiệm và quyền hành lănh đạo Quốc Gia cho Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa. - Chiếu biên bản Đại Hội Đồng các Tướng
Lănh Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa ngày 12.6.1965.
Các Tướng Lănh Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa, Tư Lệnh các vùng chiến thuật và quân binh chủng đă quyết định
: Quyết Định :
Điều 1. Thành lập một ủy ban lănh đạo của
Quân Lực mệnh danh là Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia. Điều 2. Thành phần
của Ủy Ban nói trên gồm có : một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Kư, một
Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Pḥng, Tổng
Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ
Đô. Điều 3. Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa điều khiển Quốc Gia. Điều 4. Hoàn toàn tín nhiệm
và chỉ định : A. Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia : Trung Tướng
Nguyễn Văn Thiệu. B. Tổng Thư Kư : Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu. C.
Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp : Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Điều
5. Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các
cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.
Sài G̣n, ngày 14 tháng
6 năm 1965 Toàn thể các Tướng Lănh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa
Đó là ngày đánh dấu Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa đứng
lên gánh vác trách nhiệm lớn : bảo vệ nền tự do độc lập của Việt
Nam Cộng Ḥa, làm tiền đồn ngăn chống làn sóng cộng sản và xây dựng một
đất nước lạc hậu nghèo khó v́ chiến tranh triền miên với mục đích
tiến lên thành một quốc gia phú cường, ngẫng cao đầu sánh vai với cộng
đồng thế giới. Ngày 19/06/1975 thành phần Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và
Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ
chức long trọng ở Thủ Đô Sài G̣n, đă tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc,
nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần tiền phương của quân dân
Việt Nam Cộng Ḥa chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa bảo vệ đất
nước. Từ thời điểm đó, ngày 19.6 được đánh dấu như
là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến đấu
chống đại khối cộng sản quốc tế của quân dân Miền Nam, mà Quân
Lực Việt Nam Cộng ḥa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lănh đạo đất
nước, ở hậu phương th́ xây dựng nền độc lập, tự do và
dân chủ, b́nh định những mầm móng nằm vùng bạo loạn, ở tiền tuyến
th́ chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm lăng cuồng sát của đạo
quân hiếu chiến cộng sản Bắc Việt. Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu
sau khi đắc cử Tổng Thống đầu tiên của nền Đệ Nhị Cộng
Ḥa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm
hàng năm ngày Quân Lực 19.6 với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn
vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, để biểu dương
sức mạnh và ư chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống xâm lược
cộng sản từ phương Bắc.
(Ngày 19/01/2004, cựu Tướng Nguyễn
Cao Kỳ, người từng một thời lái máy bay oanh tạc những cơ sở tàng
trữ vật chất dành cho cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam ở Miền
Bắc, người từng tuyên bố tử thủ Miền Nam trong những ngày cuối
cùng của tháng 04/1975 ở Thủ Đô Sài G̣n, đă tự động ĺa bỏ hàng ngũ
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, cúi đầu nộp đơn xin cộng sản Hà Nội
khoan hồng cho Kỳ được phép về Việt Nam. Nguyễn Cao Kỳ đă nhục
nhă quỳ gối viết những hàng chữ ô uế trong lá đơn xin chiếu khán vào Việt
Nam, thể theo những điều kiện rất trịch thượng của cộng sản
Hà Nội. Kỳ đă kính cẩn và khép nép kư cái tên tầm thường của ḿnh dưới
huy hiệu cờ máu của cộng sản, mặc nhiên chối bỏ cái quá khứ oanh liệt
được làm người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Từ giờ phút đó,
Nguyễn Cao Kỳ, con người một thời từng thốt lời ngạo nghễ
với giặc cộng và cả với đồng minh, giờ đây đă nhận chịu
sự “khoan hồng, nhân đạo” của giặc một cách tuyệt đối
và vô điều kiện. C̣n nhớ ngày xưa trong những lần Bắc phạt trở về,
chỗ ngực chiếc áo bay màu đen của Kỳ vàng óng Lá Quốc Kỳ Vàng mà Kỳ rất
hănh diện mang trên đó, th́ ngay nay Kỳ đă cúc cung cúi đầu quy phục lá cờ đỏ,
biểu tượng của diệt chủng và diệt dân tộc của cộng sản Hà
Nội, bằng một thái độ rất ươn hèn rất không tương xứng
với vị thế của một người cựu Tướng chỉ huy toàn Miền
Nam. Với ảo tưởng rằng sẽ nhận được những cái hôn thắm
t́nh “hữu nghị” và rất “anh em” của bọn cộng sản Hà Nội,
Kỳ dẫn vợ, là người phối ngẫu của người ơn cưu mang hắn
trong những năm tháng vất vưỡng mà hắn đă quyến rũ, xênh xang áo gấm
về nước. Thật ô nhục, với thân phận là người cao nhất nước
của năm 1965 trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia,
th́ đáng lẽ ít nhất gă thủ tướng của bạo quyền Hà Nội là Phan Văn
Khải sẽ ra tận cầu thang máy bay hôn lên cái trán bóng mỡ và lên hai đôi g̣ má dầy
da của Kỳ để tỏ rơ tinh thần “ḥa giải ḥa hợp” giữa riêng
bọn chúng và chỉ mỗi bọn chúng với nhau, thế mà chỉ lèo tèo có một gă gọi
là chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc và một gă thành ủy Sài G̣n. Một con người
vô luân đoạt vợ ân nhân như Kỳ, tư cách tồi bại ấy làm sao có thể
nói lời công chính và làm sao thuyết phục được đồng đội và nhân dân
tin vào những ǵ Kỳ nói.
Cộng sản thường có lối đặt chữ
rất mù mờ bất thành câu. Mặt Trận Tổ Quốc là mặt trận ǵ, nếu
phải đặt cho tṛn câu với đầy đủ danh từ và động từ, th́
phải là Mặt Trận Tổ Quốc Đứng Lên hay Ngồi Xuống hoặc Giải
Phóng ǵ đó, Mặt Trận Tổ Quốc khơi khơi là thế nào ? Như vậy người
ta thấy ngay nó là một cái mặt trận không làm ǵ cả, không ra ǵ cả, từ đó
suy ra rằng gă chủ tịch chỉ là một cái con người rơm lúc lắc theo những
cơn gió ngoài đồng. Đưa một cái h́nh nộm hữu danh vô thực, vô quyền
và không giữ vị trí tối cao nào trong hệ thống tổ chức cộng sản, Hà
Nội đă trịch thượng gởi một cái thông điệp đến Nguyễn
Cao Kỳ, mà chúng ta có thể hiểu như sau : “Nông Đức Mạnh, Phan Văn Khải
và Trần Đức Lương sẽ không bao giờ hạ ḿnh xuống ngang hàng với gă
hàng thần lơ láo Nguyễn Cao Kỳ, dù là chỉ để ban cho một cái vỗ vai khen
ngợi, th́ đừng có mà mơ tưởng đến những cái hôn của chúng và đôi
cánh tay giang ra ôm ấp trong tư thế “ḥa hợp ḥa giải”. Lại càng khó có thể
được ngồi gác chân trong những bộ salon đắt tiền ở Bắc Bộ
Phủ bàn chuyện đại sự với cộng sản”. Đó là một cách làm nhục
đối phương một cách khá là trắng trợn và rơ ràng của Hà Nội, Nguyễn
Cao Kỳ đủ thông minh để biết điều đó và đủ hèn để
cúi đầu im lặng leo lên máy bay trở về Mỹ quốc, không kèn và không trống. Từ
nay, những nhà viết sử đă có thể thêm vào đằng sau những Trần Di Ái, Trần
Ích Tắc, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống cái tên Nguyễn Cao Kỳ. C̣n đối với
bè lũ cộng sản Hà Nội :
Chừng nào mà chúng chưa tự trói ḿnh quỳ gối
cúi xin dân tộc tha thứ cho những tội ác tày trời của chúng.
Ngày nào mà nhân
phẩm người phụ nữ c̣n bị chà đạp, hàng trăm ngàn cô gái c̣n bị bán
khắp thế giới làm nô lệ t́nh dục.
Chừng nào mà hàng triệu trẻ em nghèo
c̣n thất học và vẫn lang thang khắp đầu đường xó chợ. Chừng
nào mà thanh niên, sinh viên, học sinh Việt Nam c̣n nghiện ngập sa đọa trong những
vũng lầy ăn chơi, nguồn nhân lực Việt Nam bị lụn bại cạn kiệt
từ đó.
Ngày nào mà người công nhân Việt Nam c̣n bị bọn chủ ngoại
quốc hành hạ, xúc phạm danh dự và thân thể.
Chừng nào mà những nghĩa
trang của những tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa vẫn c̣n bị san bằng
và hủy diệt, những người chiến sĩ thương phế Việt Nam Cộng
Ḥa c̣n bị chà đạp nhân phẫm và bị bỏ rơi ngoài lề xă hội.
Ngày
nào mà người dân Việt Nam không được hoàn toàn tự do bày tỏ chính kiến
khác biệt, niềm tin tôn giáo, tín đồ và những nhà lănh đạo tôn giáo c̣n bị bách
hại, giam cầm.
Ngày nào mà chúng vẫn không chịu ngừng cướp đoạt,
bỏ túi đồng tiền đẫm đầy mồ hôi và nước mắt của
đồng bào xum nhau ăn chơi vô luân và gởi ngân hàng nước ngoài hàng chục tỷ
mỹ kim.
Và trên tất cả, chừng nào mà dân tộc Việt Nam vẫn chưa được
cho sống như con người đúng nghĩa với những quyền lợi căn bản.
Th́ ngày ấy cộng sản Hà Nội đừng có ảo tưởng mơ mộng
cái gọi là ḥa hợp ḥa giải. Chúng chỉ có hai chọn lựa. Thứ nhất, tự
nguyện trao trả đất nước lại cho dân tộc để có thể được
cứu xét tha thứ, nên nhớ là tha thứ chứ không phải ḥa hợp ḥa giải. Thứ
hai, dọn ḿnh chờ ngày toàn dân đứng lên lật đổ chúng, lúc đó, xin được
báo trước và cảnh cáo cho chúng biết, đến sắt thép cũng phải nát tan thành
tro bụi dưới cơn thịnh nộ của trời đất và con người).
Với
sự trợ giúp của các nước Đồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu
đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, QLVNCH đă dần lớn mạnh, không những
đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh đội
cộng sản Bắc Việt, mà c̣n đánh cho bọn chúng tan tành thành từng mảnh vụn
trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968, chiến dịch
hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp liệu cộng quân năm
1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí
và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng cộng sản tiết lộ bí mật,
QLVNCH ngay từ đầu đă ở trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt
hại rất nặng lực lượng cộng quân. Chiến thắng lừng lẫy nhất
mà đă làm cho toàn thế giới phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả
giới truyền thông báo chí phản chiến và thân cộng cũng phải xấu hổ gục
đầu công nhận tính chất xâm lược rơ ràng của cộng sản Hà Nội và
tinh thần chiến đấu dũng mănh của QLVNCH. Đó là cuộc chiến Mùa Hè Đỏ
Lửa 1972. QLVNCH đă để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến
đấu chói lọi nhất, thiêu cháy huyền thoại Điện Biên Phủ Vơ Nguyên Giáp.
Sau cơn thảm bại mùa hè 1972 nhục nhă, Giáp bị cách chức.
QLVNCH chiến đấu
trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng có một đội quân nào trên thế
giới đă trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương tự. Vừa phải đổ
máu xương ngăn chống cộng sản ở phía trước mặt mà c̣n phải hứng
chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía sau
lưng. Người lính Việt Nam Cộng Ḥa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ
chiến đấu để tự vệ và bảo vệ làng xóm của các anh. Chính họ
đă hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và được
hạnh phúc. Sự dàn xếp của những thế lực cộng sản quốc tế
và tư bản đă đưa đến ngày tang thương 30/04/1975, QLVNCH một lần
nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn cộng sản tiểu nhân đắc
chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Ḥa, ngông nghênh tuyên bố đại
thắng, thực hiện sách lược sĩ nhục lăng mạ và đày ải những
người chiến binh QLVNCH và vợ con gia đ́nh của họ. Nhưng thật sự
có phải cộng sản Bắc Việt đă chiến thắng hay không ? Sau hơn một
phần tư thế kỷ kể từ ngày 30/04/1975, giờ đây mọi góc cạnh của
sự thật đă được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời. Chúng
ta khẳng định mạnh mẽ QLVNCH không hề thua và cộng sản không hề thắng
trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 30/04/1975. Sự thắng thua chỉ được
phân định khi hai lực lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa
hai chiến tuyến. Hai vơ sĩ so găng trên vơ đài, một vơ sĩ bị trói tay chân và
với sự đồng t́nh của ban trọng tài đă bị vơ sĩ kia đánh đập
rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng và tha hồ lăng mạ sĩ nhục
đối phương. Cuộc thắng thua c̣n chưa được phân định khi viên
đạn cuối cùng c̣n chưa được bắn ra khỏi ṇng súng.
Giờ đây,
sau gần ba mươi năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hăi hùng của
cộng sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế
giới đă khẳng định chế độ cộng sản là một cái quái thai kinh
khủng nhất trong lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn
gió đă đổi chiều thuận lợi cho QLVNCH. Cuối cùng th́ những giá trị nhân
bản thực sự của người lính Việt Nam Cộng Ḥa đă được thế
giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm xương khô đang mục ră theo với
thời gian nghiệt ngă của 300 ngàn tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa nằm
câm nín u uất dưới những nghĩa trang hoang phế điêu tàn, hay ở những chống
rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa triệu chiến sĩ thương phế mà phần
lớn c̣n sống lây lất và khắc khoải bên kia bờ Thái B́nh Dương, tất cả
những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây đă được tôn vinh.
Điều mà những người c̣n sống, những người c̣n lành lặn thân xác phải
làm là sẽ cùng nhau t́m cách cắm lên bia mộ các anh những nén hương của ḷng tri ân
với những giọt nước mắt tiếc thương, cùng nhau gởi về cho các
anh thương phế chút ḷng của những người đồng đội mà ngày xưa
từng kiêu hănh đứng chung dưới lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa,
để các anh c̣n tiếp tục nuôi dưỡng một niềm tin. Rồi sẽ có một
ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc Việt Nam sẽ
như con sóng thần biển Đông cuốn xô đi những tàn tích của cái ác.
Chúng
ta cũng nghiêng ḿnh trước Bức Tường Đá Đen ở Washington D.C, tri ân hơn
58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người bạn đă từng sát cánh
chia sẽ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh với người lính Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa, v́ nền tự do của đất nước Việt Nam
Cộng Ḥa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300,000 chiến binh thương phế Hoa Kỳ đă bỏ
lại một phần thân thể của các anh trên một đất nước thật quá
xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lănh đạm của chính
người dân Mỹ, cùng mang mễn những chứng bệnh tinh thần trầm kha. Giờ
đây th́ anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt
Nam đă có thể đi về phía cơi vĩnh hằng với ḷng thanh thản, những chiến
sĩ thương binh Hoa Kỳ và Việt Nam đă có thể thể ngẫng cao đầu
cười nửa miệng trên những đống gạch đổ nát ngỗn ngang của
bức tường thành Bá Linh và những mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa
cộng sản. Chính là các anh, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa và người
lính Quân Lực Hoa Kỳ đă là nỗ lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ
nghĩa cộng sản đó. Chúng ta có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người
lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa c̣n tập họp, đoàn kết đứng chung dưới
lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ Việt Nam Cộng Ḥa, th́ ngày đó cộng sản Hà Nội
c̣n rất run sợ, ngày ăn không thấy ngon, đêm ngủ không được yên. Chúng phải
hiểu một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn
cái bộ óc “trí tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho
ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm vào người Việt hải ngoại và Tập Thể
người lính QLVNCH, th́ cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải ǵ, giống
như những cú đánh mất hút vào cơi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng
ta ngày 30/04/1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm trước,
cộng sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết
chóc những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n vũ khí trong những
trại tù khắc nghiệt và dă man của chúng. Ngày nay, ba mươi năm sau, tuy rằng
trong tay người lính chúng ta không c̣n cây súng M16, nhưng chúng ta có rất nhiều sức mạnh
khác mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ :
Thứ nhất, sự phẫn nộ
của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Hàng trăm ngàn người lính đă
ra được đến bến bờ tự do, dù họ không c̣n vũ khí, nhưng mỗi
trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và hữu hiệu
nhất, những trái tim đó đă kết nên thành một bức tường cứng rắn.
Ba mươi năm nay, cộng sản đă hằng bắn phá vào bức tường ấy,
chỉ để thấy rằng chúng đă một lần nữa chiến bại. Tập
Thể Người Lính Việt Nam Cộng Ḥa vẫn luôn là lực lượng duy nhất
đối kháng và ngăn chống cực lực mọi cuộc tấn công của cộng
sản, dù là bằng bất cứ h́nh thức nào.
Thứ hai, cuộc chiến đấu
bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Cộng
sản từng tuyên án : “Một nhà văn “ngụy” bằng mười sư
đoàn tác chiến” . Ngày nay, cây viết của những người lính đă trở
thành cây súng M16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt cộng
sản Hà Nội, ng̣i bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo
để đưa ra trước công luận thế giới và lịch sử sự thật
về cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản quốc tế lên Miền
Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt liệt của quân dân Miền Nam.
Thứ ba, chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của
người Việt hải ngoại qua sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu
: Lá Quốc Kỳ Vàng Đại Nghĩa Ba Sọc Đỏ hiện nay đă phất phới,
ngạo nghễ tung bay ở 4 tiểu bang, 3 quận hạt, 55 thành phố và trong nhiều
trường đại học khắp nước Mỹ. Đó há chẳng phải là một
dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng
chỉ có Lá Cờ Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt
Nam, là biểu trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một
dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18 triệu người mà đă anh dũng ngăn chống
một đại khối cộng sản quốc tế với dân số hơn 1 tỉ người.
Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba
Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Ḥa vẫn hằng năm tung bay trên cột cờ
thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30.4. Đó há chẳng phải là sự
ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết cộng sản và lá cờ máu tanh hôi của bè
bọn cộng sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.
Ngày Quân
Lực 19.6 năm nay có nhiều ư nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự bắt đầu
hồi sinh của QLVNCH và của niềm tin chính nghĩa quốc qua cuộc đọ sức
gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày tàn của bọn cộng sản Hà Nội không c̣n bao
xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn cộng sản tô
vẻ ở quê nhà, chỉ là một cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp
đổ. Với sự tập họp của những người lính Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao độ trong Tập
Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Ḥa Hải Ngoại, kết hợp với những
phong trào đấu tranh đ̣i quyền sống, quyền làm người và quyền tự
do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt
Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy
hơn, để cuối cùng lật đổ được bạo quyền Hà Nội.
Anh
linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn
Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh
Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng,
sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hăy hiển linh thương xót phù tŕ
cho dân tộc Việt Nam và QLVNCH có được nhiều sức mạnh đứng lên lật
đổ bạo quyền cộng sản, đem ánh sáng công chính và hạnh phúc trở lại
trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn chúng vào cơi sâu thẳm tối
tăm nhất và đời đời của địa ngục.
Việt Nam Cộng
Ḥa Muôn Năm Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa Muôn Năm
Phạm Phong Dinh
|