Ngày
Quân Lực
Bs Hoàng Cơ Lân, Paris 11/06/2006
Thưa quư chiến hữu,
Thưa quư vị quan khách,
Cùng các bạn trẻ,
Năm nay, chúng ta kỷ
niệm lần thứ 40 ngày Quân Lực của nước VNCH thân yêu. Cựu quân nhân chúng tôi
muốn năm nay nhắc lại ư nghĩa của ngày này cho những đồng hương
sống ở nước ngoài đă lâu, và nhất là những bạn trẻ sinh đẻ
nơi quê người hay đă cùng cha mẹ phải bỏ nước ra đi hồi c̣n ít
tuổi. Họ thường có những thắc mắc như :
1/ Ngày Quân Lực 19 tháng
06 là ngày kỷ niệm của Quân đội nước nào vậy ?
2/ Viêt Nam Cộng
Hoà không c̣n nữa, tại sao các chú các bác vẫn hàng năm tổ chức kỷ niệm
Ngày Quân Lực ?
Bài thuyết tŕnh của
tôi, xin chia làm 3 phần, rất tóm tắt :
1/ Sự thành h́nh của
QLVNCH
2/ Chiến tranh Viêt Nam do CS gay ra
3/ T́m
hiểu lư do sự sụp đổ của miền Nam trách nhiệm của Quân lực miền
Nam.
Tôi xin được
phép nhắc lại một ít lịch sử : căn cứ Điên Biên Phu do liên quân Pháp-Việt
chống giữ thất thủ tháng 05/1954, và trận này kết thúc chiến tranh Đông Dương.
Hiệp định Genève sau đó chia đôi nước
Viêt Nam ở vĩ tuyến 17, miền Băc Việt dưới chế độ CS và miền
Nam dưới quyền chính phủ Quốc Gia. Quân đội Viễn chinh Pháp, mệnh danh
là Corps Expéditionnaire Français, và Quân đội Quốc gia Viêt Nam, quân số lúc đó 279 200
người (170 000 cho Lục quân, Không quân 3 500, Hải quân 3 700, Điạ phương
quân 54 000, Nghĩa quân 48 000) phải tạp kết vào Nam. Đầu năm 1956, những
đơn vị cuối cùng của Quân đội Viễn Chinh Pháp rút khỏi nam Việt Nam
Sau khi đất nước
chia đôi th́ chính phủ miền Nam do thủ tướng Ngô đ́nh Diệm điều khiển
(Quốc trưởng Bảo Đại th́ ở bên Pháp) Ngày 23-10-1955, ông Diệm tổ chức
Trưng cầu dân ư, truất phế vua Bảo Đại và được bầu làm Tổng
thống Đệ nhất Cộng Hoà. Tổng thống Ngô đ́nh Diệm bị một số
tướng tá lật đổ và sát hại ngày 01-11-1963. Nền Đệ nhất Cộng
hoà cáo chung.
Về khiá cạnh quân sự
th́ miền Nam được hưởng vài năm yên b́nh, từ 1955 cho đến giữa
1958. Các cán bộ CS nằm vùng, sau khi bộ đội chính quy CS chính thức rút về Bắc
theo hiệp định Genève, bắt đầu tổ chức khuấy phá, ám sát, phá hoại
theo kiểu du kích chiến. Chiến tranh dần dần lan rộng, từ cấp tiểu đội,
đại đội, tới tiểu đoàn rồi trung đoàn. Ngay sau khi lực lượng
Pháp rut lui, Mỹ gửi cố vấn đến thay thế .
Với đà gia tăng của chiến tranh, sau đây là quân số quân đội Quốc
Gia, biến thành Quân lực VNCH từ năm
1959-1960 : 243 000 người sau khi tổ chức lại
1964 : 514 000
1967 : 642 000
1968 : 820 000
1969 : 897 000
1970 : 968 000
1971-1972 : 1051 000 quân với 410 000 Lục quân, 50 000 Không quân, 42 000 Hải quân
cùng 14 000 TQLC, 535 000 Đ́ạ phương quân Nghĩa quân. Con số này không thay đổi
nhiều cho đến hết cuộc chiến.
Sau khi chính phủ Ngô
đ́nh Diệm bị lật đổ năm 1963, t́nh h́nh chính trị trong Nam càng ngày càng rối
loạn, vài ông tướng quên bỏ trách nhiệm thi đua đảo chính, chỉnh lư. Bè
phái bắt đầu lộ diện … Sai lầm bỏ các ấp chiến lược
giúp cho quân thù có thêm môi trường hoạt động theo chiến lược du kích
chiến của Mao trạch Đông : quân với dân như cá với nước. CSBV chuyển
thêm quân và vũ khí vào Nam, thành lập những chiến khu làm bàn đạp để tấn
công các thành thị. Bên Cao Miên đối diện với Vùng 3 Chiến thuật, 3 Sư đoàn
CS (Công trường 5, 7 và 9) thường trực trú đóng và có nhiệm vụ khuấy phá
khu cả tam giác rộng lớn phiá bắc Saigon, từ Phướng Long, B́nh Long, Tây Ninh, xuống
tận Bà Riạ, B́nh Giả. T́nh h́nh quân sự suy sụp, và nước Mỹ mượn
cớ này để ào ạt đổ quân vào miền Nam kể từ năm 1965. Trong thời
gian cực điểm của chiến tranh, đă có 500 000 quân Mỹ có mặt tại Viêt
Nam, thêm vào đó 2 sư đoàn Đại Hàn đóng ở vung B́nh Định, 1 Sư đoàn
Thái Lan trên đường đi vũng Tầu, 1 trung đoàn Úc Châu và 1 tiểu đoàn pháo
binh Tân Tây Lan, không kể những đơn vị yểm trợ nhàn đạo y khoa của
Phi Luật tân, Đài Loan, Đức quốc…
T́nh h́nh nhiễu nhương về chính trị (Phật giáo … ) cộng thêm t́nh h́nh khẩn
trương về quân sự khiến chính phủ dân sự của thủ tướng Phan
huy Quát trao lại cho quân đội trọng trách điều khiển Quốc Gia. Ngày 19
tháng 06 năm 1965 đánh dấu Quân đội đứng ra nắm chính quyền, Tư sau
đó, mỗi năm, 19 tháng 6 là ngày lễ của Quân Lực được tổ chức
đều đặn. Sau 1975, di cư ra nước ngoài anh em cựu quân nhân khắp các nơi
không quên ngày kỷ niệm này, nó thành ra ngày tưởng nhớ nhũng đồng đội
đă nằm xuống để miến Nam được sống tự do trong ¼ thế kỷ.
Quân Lực
VNCH, từ phôi thai đến trưởng thành và lư do đă tạo nên nội chiến Quốc
Cộng, Nam Bắc có một không hai trong lịch sử nước ta.
QLVNCH và tiền bối là
Quân đội Quốc gia Viêt Nam từ đâu mà ra ? Ngay sau khi Hô chi Minh ra lệnh tổng
tấn công các vị trí của Pháp ngày 19-12-1946, khởi diễn chiến tranh Đông Dương,
th́ trong năm 1947 đă có lính Viêt Nam chiến đấu trong các đơn vị Pháp. Theo một
báo cáo đề ngày 21-11-1947, có một năm sau, th́ đă có 18 990 người bản xứ
trong Quân đội viễn Chinh
Ngày 01-01-1948 thành lập
đơn vị NDVN đầu tiên (1ère Compagnie Indochinoise de parachutistes)
Ngày 01-02-1948, tiểu đoàn
Bộ binh Đông Dương (Bataillon de Marche Indochinois) được thành lập ở ngoài
Bắc, với 64 quân nhân Pháp làm cán bộ chỉ huy và 539 binh sĩ gốc Bắc Việt.
Sĩ quan Viêt Nam thời đó rất hiếm, xin kể Thiếu uư ND Nguyễn văn Vỹ,
sau này là trung tướng Tổng trưởng quốc pḥng của chính phủ miền Nam.
Khi chiếntranh chấm
dưt năm 1954, số người Viêt Nam trong quân đội Pháp đă lên tới 108 000
(53 000 chính quy và 55 000 supplétifs-phụ lực). Nếu chỉ tính 53 000 chính quy th́
người Việt đă chiếm 1/4 quân số Quân đội Pháp (200 000 người). Đa số sau này được thuyên
chuyển sang Quân đội Quốc Gia.
Cũng trong năm 1954,Quân
đội Quốc Gia có 150 000 chính quy và 50 000 phụ lực.
Quân đội
Quốc gia Viêt Nam được hợp thức hoá ngày 11-5-1950 bởi một hoà ước
kư giữa quốc trưởng Bảo Đại và tổng thống Vincent Auriol. Cán bộ
những đơn vị này hầu hết là người Pháp. Trường sĩ quan hiện
dịch đầu tiên được khai mạc tại Huê ngày 1-12-1948, khoá đầu tiên
tốt nghiệp ngày 01-06-1949.
Ở đời, lẽ
dĩ nhiên, một quốc gia tụ lực tự cường không phải nhờ đến
ai, vẫn là nhất. Nhưng khi thân phận bé nhỏ, phải chọn giữa một tà thuyết
tàn bạo và sự liên kết nhất thời với một Đồng Minh ngoại quốc
(trước là Pháp, sau là Mỹ) thi dân Viêt Nam, nếu được quyền ăn nói, đă
chọn giải phap thứ hai. Bài học rút tiả là dân quê ít học, đă giám dấn
thân trước giới trung lưu, thượng lưu nơi thành thị. Họ đă ṭng
quân trước tiên, có thể v́ đồng lương, v́ hoàn cảnh an ninh cơm gạo…nhưng
chúng ta không thể phủ nhận họ đă chiến đấu và hy sinh để làn sóng
đỏ không phủ lên nước Viêt Nam trong suốt những năm 1947-1975.
Chiến tranh kéo dài từ
năm nọ qua năm kia, đạo quân Viễn Chinh không giải quyết được
chiến trường. Năm1949 quân Trung Cộng của Mao trạch Đông tiến tới
sát biên giới Hoa-Việt, và tiếp tế huấn luyện bộ đội VM càng ngày
càng lớn mạnh.
Tháng 10 năm 1950, trên quốc
lộ 4, nối liền Lạng Sơn đến Cao Bằng, quân Pháp đụng với những
sư đoàn chính quy mới thành lập của đối phương, đă thảm bại
mất đi 8 tiểu đoàn cùng rất niều vũ khí trong ṿng có 3 tuần. T́nh thế
thật là nguy kịch, và đồng bằng Bắc Việt bị đe dọa nặng nề.
Chính phủ Pháp vội chỉ
định Đại tướng De Lattre sang Đông Dương với chức vụ Tổng
tư Lệnh và Cao ủy, tức là kiêm nhiệm quyền hành quân sự và dân sự. Ông tói
Hanoi ngày19 tháng 12, 1950 Thủ đô lúc đó xôn sao, quân đội VM vừa thắng lớn
ở quốc lộ 4 muốn thừa thắng sông lên, và Vơ nguyên Giáp cho rải truyền đơn
là sẽ vào Hanoi ăn Tết 1951. Với tài chỉ huy điêu luyện, tướng
De Lattre chuyển thêm quân từ trong Nam ra bằng máy bay, và chặn đứng các sư
đoàn VM ở Vĩnh Yên (13-17 tháng 01, 1951) cách Hanoi không tới 100 km, bẻ gẫy chiến
dịch thứ hai của Giáp tại Đông Triều (23-30 tháng 03, 1951) và Sông Đáy (tháng 05
và 06, 1951). Bắc Việt được cứu thoát.
Tướng De Lattre nhận
thấy Pháp không thể thắng bằng quân sự ở Đông Dương và phải trả
lại mau chóng độc lập toàn vẹn cho Viêt Nam. Như vậy, Viêt Nam phải có quân
đội mạnh, lúc đầu với sự trợ giúp của quân đội Pháp, mói đứng
vững được. Chính ông đă là người « đỡ dầu » thành h́nh Quân
đội Quốc gia, bằng cách « Viêt Nam hoá », hồi đó gọi là jaunissement các
đơn vị chủ lưc của Pháp. Đơn v́ nào cũng phải có người Viêt
Nam với 1 tỷ lệ từ 30 đến 50%, những thành phần này sẽ là ṇng cốt
của quân đội Viêt Nam tương lai (tất cả những đơn vị ND hay Lê
Dương đều được tổ chức theo kiểu này).Ông cho mở các trường
huấn luyện quân sự, như trường Vơ Bị Dalat năm 1951, sau này được
mở rộng và hiện đại hoá, tŕnh độ không kém các trường Saint Cyr hay West
Point. Để làm gương, con trai duy nhất là trung uư Bernard De Lattre chỉ huy một đơn
vị thiết giáp gồm toàn binh sĩ Viêt Nam, đă tử trận tại Ninh B́nh ngày 28-05-1951.
Mặc dầu mang tang con,
ông đă đến dự lễ phát phần thưởng cuối niên học 1950-51 tại
trương trung học Chasseloup Laubat ở Saigon : ... « các bạn hăy tỏ ra xứng
đáng. Nếu các bạn thích CS th́ các bạn hăy sang hàng ngũ VM, có những người bên
bọn chúng chiến đấu giỏi nhưng cho một lư tưởng sai lầm. Nhưng
nếu các bạn là người Quốc Gia th́ chiến tranh này là chiến tranh của các bạn… »
Lúc này cũng là lúc chính phủ Quốc Gia kư lệnh động viên quân dịch.
Tháng 05, 1954 Quân đội
Viễn Chinh đă thua ở Điên Biên Phủ, nhưng ít người biết là 50 % quân
trú pḥng của căn cứ là người Việt, Thái, Nùng … 5075 quân ND Pháp Việt đă
bỏ ḿnh trong trận Diên Biên Phu, 2495 người Pháp và gốc Âu Châu, 2580 người Việt,
trong đó có 629 SQ, HQ và BS của TĐ5ND/Viêt Nam. C̣n ai nhớ đến trên 1000 tù binh dân công
(PIM hay Prisonniers internés militaires ) người Việt có mặt ngay từ phút đầu,
với quy chế tù binh chiến tranh, họ đă phụ giúp đào hầm hố cho căn
cứ, sau này tải đạn tiếp tế lương thực
nước uống cho các cứ điểm khi trận
chiến trở nên ác liệt, các lính tác chiến bị cầm chân tại chỗ. Trong mấy
tuần cuối, đôi khi họ phụ bắn súng máy hay súng cối khi người lính chính
quy ngă gục. Đào ngũ sang phiá VM th́ quá dễ, v́ khi giao tranh đôi bên chỉ cách nhau có
vài chục thước, nhưng tính ra chỉ khoảng 1% là trốn sang với Bác và Đảng.
Ước tính hơn một nửa số PIM này dă thiệt mạng tại Diên Biên Phu, số
c̣n lại sau khi phải thu dọn chiến trường cho kẻ thắng, có lẽ đă
bị thanh toán hay chết ṃn trong các lao tù, v́ sau này không c̣n tông tích ǵ của họ nữa.
Tính ra trong 8 năm chiến
tranh Đông Dương (1947-1954), 400 000 người Viêt Nam và một phần ít các sắc
tộc khác như Thái, Nùng, Miên, Lào.. đă chiến đấu chông CS trong hàng ngũ quân đội Pháp hay các quân đội
Quốc gia tân lập. Bè lũ VM không thể nào vỗ ngực cho ḿnh độc quyền ái
quốc, chống « thực dân Pháp », đánh cho « Mỹ cút ngụy nhào ».
Hiệp định Genève
cắt đôi đất nước đă khiến cho 1 triệu người ngoài Bắc bỏ
lại tất cả để sống tự do trong Nam. Với bản tính gian ác lừa loc,
CS đâu có rút hết ra Bắc như đă kư kết, và những thành phần nàm vùng lại
bắt đầu phá hoại cùng phát động chiến tranh du kích từ năm 1957,
đưa đến chiến tranh Viêt Nam trở nên càng ngày càng khốc liệt với sự
tham dự của Mỹ và các nước Dồng Minh.
Quả thật như chiến
lược gia Clausewitz đă nhận định : « Chiến tranh xăy
ra không phải do bên bị tấn công mà do bên bị xâm lăng, v́ có tấn công mới có tự
vệ, và như vậy mới có chiến tranh ».
Nói về quân đội
miền Nam trên 1 tirệu người và chiến tranh Viêt Nam kéo dài gần 20 năm phải
mất nhiều thời giờ lắm. Tôi xin cố vắn tắt để chúng ta tạm
nắm được vấn đề, và để có thời giờ cùng thảo luận.
Sau khi năm 1956, quân đội
Viêt Nam dần dần thay đổi theo tổ chức quân đội Mỹ. Quân số gia
tăng như tôi đă tŕnh bầy, đến năm 1970 lên tới 1 triệu, phân phối
như sau (kê khai rất sơ khởi):
1/ Vùng 1 Chiến thuật
ngoài Trung : SĐ1BB đóng tại Huê, SĐ2BB đóng tại Quảng Ngăi, SĐ3BB đóng
tại Đà Nẵng, LĐ1 Kỵ Binh Thiết Giáp, 4 TĐ Pháo Binh và Pḥng Không, 4 LĐ/BĐQ,
LĐ1CB/Chiến Đấu, SĐ1KQ đón tại Đà Nẵng với 6 Phi đoàn khu trục
và 6 phi đoàn vận tải trực thăng, các đơn vị yểm trợ khác
2/ Vùng 2 Chiến thuật
ơ vùng Cao nguyên : SĐ22BB tại Qui Nhơn, SĐ23BB tại Ban Mê Thuột, LĐ2 Kỵ
Binh Thiết giáp, 6 TĐ Pháo Binh, 5 LĐ/BĐQ, SĐ2KQ tại Nha Trang với 6 Không đoàn
Chiến thuật cùng các trường phi hành, SĐ6KQ tại Pleiku với 2 không đoàn
72 và 82, các đơn vị yểm trợ khác…
3/ Vùng 3 Chiến thuật
xung quanh Saigon : SĐ5BB tại B́nh Dương (Lai Khê), SD18BB tại Long Khánh, SĐ25BB tại
Củ Chi (Hậu Nghĩa), LĐ3Kỵ Binh Thiết giáp, 2 TĐ Pháo Binh, LĐ Công Binh chiến
Đấu, 3 LĐ/BĐQ, SĐ3KQ tại *Biên Ḥa với 6 phi đoàn khu trục và 6 phi đoàn
trực thăng, SĐ5KQ tại Saigon với 1 phi đoàn trực thăng và 9 phi đoàn vận
tải, các đơn vị yểm trợ khác…
4/ Vùng 4 Chiến thuật
tại Hậu giang : SĐ7BB tại Mỹ Tho, SĐ9BB tại Sađéc, SĐ21BB tại
Bạc Liêu, LĐ4 Kỵ Binh thiết giáp, LĐ40CB Chiến đấu, SĐ4KQ tại Trà
Nóc (Cần Thơ) với 2 không đoàn 74 và 84, các đơn vị yểm trợ khác ...
Vào thời bấy giờ,
Không quân VNCH đứng vào hàng thứ tư trên thế giới với 2075 phi cơ đủ
loại và 61 147 người
Hải Quân cũng bành chướng
rất lớn : đến năm 1975, HQ/VNCH có tới 1 600 chiếc tầu dủ loại,
40 000 quân được tổ chức thành 2 Bộ Tư lệnh : Trần Hưng
Đạo Biển và Trần Hưng Đạo sông. Thêm các Trường huấn luyện và
Hải quân Công xưởng ở Saigon.
Lực lượng
Tổng trừ bị : SĐND, SĐ/TQLC, LĐ81/Biệt Cách Dù, LLĐB.
Làm sao kể hết cả
trăm cả ngàn trận mà Quân đội miền Nam đă tham dự dể chống lại
quân thù miền Bắc. Quư vị c̣n nhớ Têt Mậu 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, những
trận để đời của quân cán chính miền Nam và sức chiụ đựng phi
thường của người lính VNCH.
Xin rất vắn tắt
về Têt Mậu Thân. Các bạn sống ở ngoại quốc từ nhỏ, không thể nào
hiểu và biết được cái không khí thiêng liêng của ngày Têt. Mặc dù chiến tranh,
Têt đến là 2 bên hưu chiến 3 ngày. Tuỳ theo t́nh h́nh, đơn vị trưởng
chúng tôi có quyền cho binh sị đi phép đến 50%.quân số, có đơn vị c̣n phải
nhắm mắt cho đi hơn nữa. Đôi khi về quê, binh lính của ta gặp cả
người phiá bên kia về ăn Têt với gia đ́nh, thôi th́ đôi bên làm ngơ như không
thấy nhau, Têt mà ! Nhưng đến năm 1967, Bộ Chính trị đảng CS Hanoi
đă lấy quyết dịnh khác. V́ nếu cứ tiếp tục chiến tranh theo kiểu
này, th́ thể nào cũng sẽ thua trước hỏa lực và tiềm năng hùng hậu
của Hoa Kỳ : kinh tế ngoài Bắc kiệt quệ, sự hao ṃn về nhân lực,
tài lực đă đến mức báo động. Thà đánh « xả láng » một keo
bạc, may ra gỡ lại được ván cờ :
1/ nếu thắng sẽ
làm giảm ư trí của Mỹ, ông Nixon có thể thất cử vào cuối năm, Mỹ bắt
buộc phải trở lại bàn hội nghị và rút khỏi Viêt Nam, quân đội miền
Nam có thể tan ră v́ đa số quân nhân đi phép, cửa bỏ ngỏ cho « nhân dân »
nổi dậy theo « Cách mạng » (người CS tuyên truyền riết rồi tưởng
tuyên truyền ḿnh là đúng).
2/ nếu thất bại,
th́ lực luợng « Giải phóng miền Nam » tức CS Nam kỳ sẽ lănh đủ
(sự thật đă xẩy ra như tiên đoán) và ngoài Bắc sẽ hoàn toàn nắm quyền
chỉ huy sau này.
Đầu năm
Dương lịch 1968, Nguyễn Duy Trinh, Bộ Trưởng Ngoại Giao, c̣n ngỏ ư muốn
ḥa đàm cốt ư đánh lạc hướng sự chú tâm của Hoa Kỳ . Ít lâu sau đó,
Hồ Chí Minh đọc bốn câu thơ chúc Tết trên đài phát thanh Hà Nội hàm ư gửi
mật lệnh tổng tấn công. Nguyên văn 4 câu thơ này như sau:
Xuân này hơn
hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua
đánh giặc Mỹ
Tiến lên, toàn thắng ắt về ta
khi nghe chẳng
ai tin và cho rằng những lời thơ này chỉ có tính cách khích lệ và cổ vơ cho một
chiến thắng mơ ước xa xăm. Nhưng sự thật là lệnh Tổng Công Kich
Têt Mậu thân.
Trong đêm 30-01-68
rạng 31-01-68, tức đêm 1 Têt, 84 000 quân VC và Bắc Việt tấn công 36 tỉnh trên
44, 5 đô thị lớn trên 6, tất cả các phi trường và trên 100 làng và quận lỵ.
Lệnh cho quân CS là phải chiếm đóng các khu đông người và b́nh dân để dễ
tuyên truyền và dùng dân làm bia đỡ đạn khi phải giao tranh với quân đội
Cộng Hoà. Trái với ước doán của phe CS, dân miền Nam không nổi dậy theo « Cách
Mạng » mà lại t́m đủ mọi cách để chạy về vùng Quốc gia. Quân
ta, nhiều nơi chỉ c̣n 30% quân số đă chống trả mănh liệt, địch không
chiếm được một nơi nào trừ ¾ thành phố Huê bi địch chiếm đóng
3 tuần và tàn sát cả ngàn dân như mọi người biết. Quân đội Mỹ th́
chỉ chống trả khi bị tấn công, ngoại trừ thủ đô Saigon được
5 000 quân của tướng Weyand tiếp cứu ngay sáng 02 Têt,và Huê được TQLC Mỹ
tiếp tay với quân ta 1 tuần sau khi CS chiếm thành phố.
Số thương
vong của CS trong tháng đầu trận Mậu Thân (29/01 đến 29/02 1968) là 45 000
chết được phân chia như sau : 18 600 quan chính quy, 9 000 quân lo tiếp vận,
12 400 đại úy kích, 5 000 cán bộ hay chính trị viên. Đến cuối tháng 03/68
con số này lên tới 58 363 người. Ta bắt được 9461 tù binh.
CS đă sát hại
khoảng 7 000 thường dân trong thời gian chiếm Huê. Các mồ tập thể được
khai quật từ sau khi ta chiếm lại Huê, từ ngày 24 tháng 2 1968 cho đến cuối
năm 1969 đă cho phép kiếm lại được 5 000 thi thể. Đến nay vẫn
c̣n 2 000 người mất tích. Trên toàn quốc, 14 300 thường dân đă bỏ mạng
trong trận này, 24 000 người đă bị thương, 72 000 người mất
hết nhà cửa, 627 000 phải ti nạn.
Tổn thất
quân đội ta đến cuối tháng 3/68 là 4954 hy sinh, 15 097 bị thương, 926 mất
tích. (tại SĐND sĩ quan chết và bi thuơng nhiều hơn HSQ)
Tổn thất
Đồng Minh (Mỹ, Đại Hàn, Úc..) : 4124 hy sinh, 19 285 bị thương, 604
mất tích.
Thất bại
nặng nề vừa chính trị vừa quân sự của CS, nhưng đối với Quốc
tề và dư luận My, th́ lại là một chiến thắng lớn. Chúng ta sẽ quay lại
vấn đề này.
Nói đến
Mậu Thân ngoài Trung, chúng ta không thể quên được Khe Sanh, căn cứ gần biên
giới Lào Việt mà tướng Giáp công hăm từ 20-1-1968 để đánh lạc hướng
trận Tổng công kích sắp tới, và để cầm chân TQLC Mỹ tại đó. Hai
Sư doàn Bắc Việt 304 và 325C cùng dân công tiếp vận, tổng cộng 45 000 người
đă vây đánh Khe Sanh trong 77 ngày, từ 20/1 đến 05/04/1968, tức 22 ngày lâu hơn Diên
Biên Phu. Căn cư do 6 000 binh sĩ thuộc SĐ3TQLC Mỹ pḥng thủ cùng 600 binh sĩ
Viêt Nam thuộc TĐ37BĐQ (TĐT Đại úy Hoàng Phổ) được không vận
từ Phú Lộc đên Khe Sanh ngày 27/01 và chấn giữ phiá đông căn cứ suốt trận
đánh. Dưới hỏa lực của quân trú pḥng và yểm trợ phi pháo như thác lũ
của KQ Mỹ, tướng Giáp, tưởng làm lại một Diên Biên Phu thứ hai, đă
phải rút 2 SĐ304 va 325C gần như tan ră về Viêt Nam, 2 đại đơn vị này
kẹt ở Khe Sanh không tiếp tay được cho mặt trận Huê. Báo chí Mỹ và ngoại
quốc không hề đả động đến vai tṛ của TĐ/BĐQ Viêt Nam.Tới
đây, tôi thách đố bạn nào kiếm được cho tôi một bài báo ngoại quốc
thời đó nói về đơn vị này tại Khe Sanh.
Với sư
trợ giúp tận t́nh của khối CS Quốc tế, coi thường mạng sống của
dân Việt, đảng
CS ngoài Bắc lại chỉ thị cho tướng Giáp sửa soạn một cuộc tấn
công qui mô khác vào năm 1972, với phương tiện hùng hậu pháo binh và thiết giáp (lần
đầu thấy xuất hiện xe tank T-54 Nga Xô). Trận chiến kéo dài trong 3 tháng 04, 05
và 06/1972 mệnh danh Mùa Hè Đỏ Lửa, đă tỏ cho Thế giới sự can trường
của người lính VNCH, khi họ được chỉ huy đàng hoàng.và đúng mức.
Mở màn là trận
mưa pháo trên chiến trường Quảng Trị, rồi đến Cao Nguyên, dọc vùng
duyên Hải, rồi đến Vùng 3 Chiến thuật tại tỉnh B́nh Long phiá bắc
Saigon. Địch chiếm thị xă Lộc Ninh ngày 07-04-72 gần biên giới Cao Miên, 20km. về
phiá nam là An Lộc nằm trên quốc lộ 13 nối liền với Saigon. Mất An Lộc
là Saigon bị đe dọa. Trong vùng, địch xử dụng 3 Sư đoàn Công trường
5,7 và 9, SĐ Pháo 75 trang bi thêm súng pḥng không và 3 tiểu đoàn Thiết giáp. Trận An Lộc
kéo dài hơn 2 tháng từ 13-4-72 đến 29-06-1972 ngày mà An Lộc được giải tỏa.bởi
tiếp viện từ phiá Saigon lên.. An Lộc được SĐ5BB, LĐ13BDQ của ta chống
giữ và LĐ1ND & LĐ81BCD đến tăng cường sau. Thị xă bị pháo của
địch cầy nát, nhưng địch không sao chiếm nổi mặc dầu nhiều
đợt xung phong có thiết giáp yểm trợ. Bên ta được không quân Việt Mỹ
(B52) yểm trợ tối đa, kể cả tiếp tế thả dù (3 686 tấn đạn
được, xăng nhớt, lương thực, thuốc men)
Quân số đôi
bên trong 2 tháng giao tranh : phe ta 6350, địch : 18 000.
Thương
vong : Phe ta chết 2 280, Bị thương 8564, Mất tích 2091
Địch chết 6 464 Tù binh 56
Để
kết luận, chúng ta hăy so sánh trận đánh An Lôc với trận Diên Biên Phu cách đây hơn
50 năm :
- Quân Liên Hiệp Pháp có gần 13 000 người ở Diên Biên Phu, trong khi ở An
Lôc quân trú pḥng chỉ được 6 350 người lúc đông nhất.
- Chu vi Diên Biên Phu là 16cs x 9cs, tỉnh lỵ An Lôc chỉ dài rộng có 2cs x 1cs. Tại
Diên Biên Phu lúc khởi đầu trận đánh, có nơi pháo binh Bắc Việt không bắn
tới, trong khi đó th́ An Lôc lănh pháo ngay ngày đầu
- Tại Diên Biên Phu, pháo binh Pháp có 28 khẩu 105 và 155, 24 súng cối
120 ly. An Lôc chỉ c̣n 1 khẩu 105
ngay sau ngày 13-4-1972.
- Pháp có 10 chiến xa ở Diên Biên Phu, tại An Lôc quân trú pḥng không
có chiến xa mà CSBV lại có 3 Tiểu đoàn Thiết giáp !
- Căn cứ Diên Biên Phu bị 200 000 quả pháo, An Lôc lănh 70 000
trái nhưng diện tích An Lôc chỉ độ 1/10 diện tích Diên Biên Phu. Nếu tính theo tỷ
số, th́ An Lôc bị pháo nhiều hơn Diên Biên Phu !
- Những sự kiện này chứng minh là người lính VNCH, khi
được chỉ huy đúng mức, can trường c̣n hơn người lính CSBV. Không
bị nhồi sọ, không có “chính trị viên” khủng bố tinh thần, họ biết
giá trị thiêng liêng của chữ Tự Do và chấp nhận chiến đấu hy sinh cho
gia đ́nh và xứ sở
Vậy ư nghĩa
ngày QL hôm nay là để chúng ta tưởng nhớ đến người lính VNCH, mà có lẻ trong lịch sử thế giới,
không cá người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngă như
vậy.
Học giả
Phạm kim Vinh trong cuốn Thiên Anh Hùng Ca viết cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà,
đă tả những người lính chiến đấu trong những điệu kiện khắc
nghiệt suốt hơn hai mươi năm, họ đi qua một con đường dài của lịch
sử mà ông cho là ‘kể về sự khắc khổ và chịu đựng c̣n vượt
xa Vạn lư Trường chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị
tha và cao quư, c̣n vượt xa các cuộc Thánh Chiến thời Trung cổ.
Vậy
tại sao một quân đội hơn 1 triệu người, dầy kinh nghiệm chiến
đấu, với 300 000 thương vong trong một chiến tranh kéo dài 25 năm,
đă tan hàng trong có 55 ngày, làm cả Thế giới và ngay đối phương phải
ngỡ ngàng..?
Ai cũng
biết câu nói bất hủ của Clausewitz:: Chiến tranh là sự nối tiếp của
chính trị dưới h́nh thức khác (la guerre est la continuation de la politique par d’autres moyens).
Khi lâm chiến, nếu không thắng th́ chí có thua, chứ không có giải pháp trung dung nào
có thể thay thế chiến thắng (In war, there is no substitude for victory-Gen Mc Arthur) V́ vấn
đê sống c̣n và tại thân phận nhỏ bé, chúng ta đă rơi vào quỹ đạo của
ông đồng minh Hoa Kỳ. Vậy chủ đích của Hoa Kỳ ở VN có phải là chiến
thắng.không? Câu trả lời tất nhiên là không !
Kinh nghiệm
chiến trường từ xưa tới nay, bắt các nước lâm chiến phải theo
vài quy luật, nếu không muốn thất bại hay bĩ hủy diệt. Xin tŕnh với
quư vị vài quy luật chính về chiến tranh mà tôi đă học được tại
tường Chỉ huy Tham mưu Cao cấp tại hoa Kỳ, và cũng theo trường Tham
mưu đó, hầu hết các quy luật về chiến tranh đă không được tôn
trọng trong chiến tranh VN :
1/ Ấn
định mục tiêu và kiên tŕ để đạt mục tiêu đó (La définition et la
persistance du but à atteindre) Đánh mà không muốn thắng,th́ đâu có phải là một muc tiêu
để lâm chiến. Bằng cớ là bức thơ tổng thống Nixon gửi cho tổng
thống Thiệu hồi tháng 05/1972, ngay Mùa Hè Đỏ Lửa:”..quư quốc và Hoa
Kỳ có bao giờ muốn đánh bại Bắc Việt bằng quân sự đâu. Chúng ta
chỉ muốn chấm dứt cuộc chiến này bằng giải pháp điều đ́nh..”
Trong khi đó th́ mục tiêu tối hậu của CS Bắc Việt là thôn tính miền Nam
bằng mọi giá. Tại sao thái độ này ? Hoa Kỳ sợ gây chiến với Tầu
hay với Nga, hay có lư do thầm kín khác ? Cho nên quân sĩ miền Nam chỉ có chống đỡ,
chúng ta không có quyền đánh ra Bắc, cho tới mấy năm cuối của chiến tranh,
QLVNCH không có quyền truy kích quân CS sang Cao Miên hay Lào, máy bay của chúng ta không đủ khả
năng bay ra oanh tạc Hanoi rồi trở vê, những phi vụ này dành cho Không lực hoa Kỳ.
Mà ngay phi công Hoa Kỳ cũng bị trói tay trên bầu trời Bác Việt bởi những lệ
luật quái gở tóm tắt gọi là rules of engagement : một cái cầu hôm nay được
oanh tạc, ngày mai không được nữa, một dàn hỏa tiễn Sam đang đươc
hoàn thành cũng không được oanh kích, v́ sợ bắn phải cố vấn Nga, máy bay
Mig đậu dưới đất cung không đươc phá trừ trường hợp
máy bay này ở trên không và tỏ ra có ư định gây hấn (hostile intentions), cấm
ngặt không được bắn phá đê điều…Lệnh ban ra từ toà Bạch
Ốc! Tướng tá Mỹ than phiền là phải đánh nhau với một canh tay bị
“chói ra sau lưng” !
2/ Thống
nhất chỉ huy (Unité de commandement) QLVNCH và QL Hoa Kỳ đều có bộ chỉ
huy riêng biệt, và ngay trong QL Hoa Kỳ cũng có những tổ chức chỉ huy khác nhau:
TQLC ngoài Trung th́ thuộc CINC/PAC, Hạm đội 7 tại Hawaii, Không quân Mỹ th́ dưới
quyền Không Lực 13 (13th Air Force) bên Phi luật Tân, Lục quân th́ dưới quyền sài
xể tướng Westmoreland USARV ở Saigon. Như vậy làm sao phối hợp t́nh báo và điều
hành để nhanh chóng đạt chiến thắng?
3/ Dồn
nỗ lực cho một mục tiêu chính trong một thời gian nhất định (concentration
des efforts) không được đúng mức cũng v́ những lư do nêu trên: Lam Sơn
719, HQ sang Cao Mên
4/ Dành được
thế bất ngờ (obtention de l’effet de surprise). Bất ngờ điển h́nh là
địch đánh Têt Mậu Thân mà ta không biết. Kinh nghiệm bản thân c̣n nhiều ví dụ
khác
5/ Thế
chủ động (Initiative et offensive) : v́ phải giải quân giữ điạ
thế, giữ an ninh cho đồng bào sinh sống, thường thường địch
nó đành thế chủ động, rồi ta chống đỡ, cũng may mà quân đội
ta vững.
6/ Đơn
giản và tiết kiệm trong hành động (la simplicité et l’économie) Quân đội
Hoa Ky mang thử vũ khí trên chiến trường miền nam, phương tiện khổng
lồ, phung phí, nên quân đội ta cũng chiụ ảnh hưởng « tính xấu »
đó, rồi quen không biết đánh nhau theo kiểu « nhà nghèo » nữa.
7/ Tinh thần
và Tuyên truyền (moral et propagande) Chiến tranh kéo dài quá lâu, và sức chiụ đựng
của quân sĩ cũng bị ảnh hưởng, nhất là lương quân đội không
đủ ăn, mà ngườí lính thấp cổ bé miệng chiụ thiệt tḥi nhất.
Từ đó xẩy ra tệ đoan như tham nhũng … Được tự do hơn
ngoài Bắc, thường dân thờ ơ với cuộc chiến. Qua các sứ quán, tác động
tinh thần của ta ở ngoại quốc rất kém. Đáng nhẽ những người
được phái đi nước ngoài phải là cán bộ đă có công với đất
nước, ví dụ những quân nhân mang thương tích nặng ... Trong khi đó th́ phe
CS dồn hết nỗ lực vào mục tiêu này để năm một số sinh viên du học,
và hầu hết các báo chí nước ngoài (ví dụ Têt Mậu Thân). Được biết
đài phát thanh Hanoi bắt được ở Paris trong khi dân chúng miền Bắc chết
đói, c̣n đài Saigon th́ sao ? Nhờ bộ máy tuyên truyền của thế giới CS,
chiến tranh Viêt Nam đă trở nên một đề tài hoàn toàn bất lợi cho VNCH. Quân
Bắc xâm lăng th́ được coi là anh hùng, những sự man rợ như giết chóc
ám sát, các mồ tập thề ở Huế th́ được báo chí quốc tế lướt
qua. C̣n VNCH th́ bị sỉ vả không ngớt. Tệ hại là các phương tiện truyền
thông của Mỹ cũng đều phụ họa theo đường hướng CS (Têt
Mậu Thân, so sánh với Đông đức-Tây Dức…) Bên Pháp th́ chỉ có vài tờ báo
của phe cực hữu ủng hộ miền Nam (báo Present với h́nh ảnh SVSQ Dalat trên
cầu xa lộ), ít phóng viên khác…
8/ Tiêu diệt
lực lượng địch (anéantissement des forces de l’ennemi) Không đổ bộ
ra Bắc th́ 1 triệu quân Cộng hoà, 500 000 quân Mỹ cùng các Đồng Minh khác cũng
chẳng đạt được mục tiêu này khi chỉ giữ thế thủ ở miền
Nam.
Trên mọi phương
diện, ta hoàn toàn trông cậy vào Mỹ, và Mỹ đă cố ư gây ra t́nh trạng này để
nắm quyền quyết định. Ngày nào Mỹ cúp viện trợ th́ ta chết. Ví dụ
ta không được làm xưởng chế đạn, không được lập ngân hàng
quân đội, tiếp liệu quân Y hoàn toàn của Mỹ, hàng hoá PX tràn ngập thị trường
….
9/ Sự
kém cỏi của một số chỉ huy cao cấp quân đội Cộng hoà : Tiền
trách kỷ, hậu trách nhân, chúng ta phải thẳng thắn và can đảm nh́n nhận những
yếu kém của một số chỉ huy cao cấp của chúng ta. Tôi không vơ đuă cả
nắm, nhưng chúng ta đă có một số người chỉ huy bất xứng. Có người
chiến đấu giỏi th́ không được đi học thêm. Rút lui miền Trung và miền
Cao nguyên là một thí dụ điển h́nh về sự bất tài điều quân, từ người
ra lệnh cho đến người thi hành : di tản miền Cao nguyên qua quốc lộ
7 là phạm tất cả những lỗi lầm trong một hành quân triệt thoái …
Có một giả thuyết khác : hay là có sự sắp đặt trước rồi ?
Dọn nhà riêng c̣n mất vài ngày, huống chi đây là cuộc triệt thoái một quân đoàn mà
cấp chỉ huy tối cao chỉ cho phép 2-3 ngày. Hơn nữa không được chuẩn
bị ǵ hết. Ngoài ra những công sự chiến đấu hoặc những cây cầu
không bị phá huỷ hay dựt sập. Câu nói của Kissinger : « sao chúng không chết
phứt đi cho rồi ... ! » khi tại một vài nơi binh sĩ của ta c̣n tuyệt
vọng cầm cự, nó vẫn c̣n văng vẳng nơi tai.
10/ Nước
Mỹ đă khai tử miền Nam bằng cách đi đêm với CS và cắt dần viện
trợ từ 2 tỷ xuống c̣n 500 trịệu $ cho tài khoá 1975 lúc nước ta đang chiến
đấu để sống c̣n. Không kể những vụ hạ nhục chính quyền ta
và bôi xấu QLVNCH (đến tháng 02/1975, c̣n có một phái đoàn dân biểu Mỹ sang « thanh
tra » Viêt Nam, để kiếm thêm lư do cúp viện trợ. Họ đ̣i đi xem trại
tù Côn đảo (hầm cọp để nhốt tư nhân chính trị), gặp thành phần
tôn giáo chống đối (mà sau này chúng ta đều biết là thân Cộng hoặc bị
CS giật giây) : Mac Closky đ̣i cúp hết viện trợ, Bella Abzug, Fenwick có thái độ
lạnh nhạt và rất hỗn) Đến nỗi Tổng thống Thiêu đă phải thốt
ra trong bữa tiệc khỏan đăi phái đoàn này (tiệc cuối cùng tại dinh Độc
Lập của nền đệ Nhị Cộng Hoà) : « ..quà tặng đă quan trọng, nhưng cách tặng quà c̣n quan trọng hơn nhiều.. »
Rút cuộc, lư
do chính của sư sụp đổ miền Nam là Mỹ không c̣n quyền lợi nào ở
đó nữa. Đơn giản là như vậy. Tôi c̣n nhớ câu buộc tội hồi năm
1975 của triết gia Raymond Aron : « l’Amérique a commis le crime de non assistance
à une nation alliée en danger de mort » (Nước Mỹ đă phạm tội bỏ rơi
một nước đồng minh trong cơn hấp hối)
Chúng ta hăy chờ
xem thế sự ở Trung Đông hiện nay soay vần ra sao, Mỹ sống c̣n với Israel
v́ nước này là tiền đồn giữ dầu hỏa ở Trung Đông cho Mỹ ...