HỒ ĐINH
Viết từ KBC 4424 – 3435 và 4608
Như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (1967-1975) từng
nói ‘ Đất nước c̣n th́ c̣n tất cả ‘. Bởi vậy sau ngày 1-5-1975,
đồng bào Miền Nam đă mất hết mọi thứ kể cả quyền làm dân,
khi chính phủ và quân lực VNCH không tồn tại, để bảo vệ họ như hồi
Tết Mậu Thân 1968, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 và trăm ngàn chiến cuộc, khắp mọi
nẽo đường đất nước, cho tới ngay 30-4-1975 bị ră ngủ theo lệnh
buông súng đầu hàng.
Tự ngàn xưa, quân đội Việt Nam luôn nổi tiếng kiêu
hùng, nên đă đạt được nhiều chiến công hiển hách, trong suốt ḍng
lịch sử của dân tộc, qua các cuộc b́nh Chiêm, phá Tống-Nguyện-Minh-Thanh, khiến
các nước lân bang Lào, Miên và cả Xiêm La phải kinh hồn bạt vía.
Là con cháu của Tổ Tiên Hồng-Lac, chúng ta dù được sinh
vào thế hệ nào chăng nửa, ra đời trong nước hay nơi hải ngoại,
vẫn luôn ngưỡng mộ và hănh diện, về công đức vĩ đại của
tiền nhân, trong đó miên viễn quân đội bao đời,
Với ư nghĩa thiêng liêng và cao quư trên, Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, được h́nh thành trong giai đoạn đất nước tạm chia (1955-1975),
chống lại cuộc xâm lăng bằng quân sự, của khối cọng sản đệ
tam quốc tế, do Việt Cộng Bắc Việt đảm nhận. ĐÂY LÀ MỘT CUỘC
CHIẾN SINH-TỬ, của quân đội MIỀN NAM, chống lại cuộc xâm lăng của
bộ đội MIỀN BẮC, để giữ lại phân nửa gấm vóc giang sơn
của Tiền-Nhân, không lọt vào gông cùm nô lệ của giặc đỏ.
Cho nên, đây không phải là một cuộc chiến giữa CỌNG
SẢN BẮC VIỆT VÀ NGƯỜI MỸ, như giới truyền thông phương Tây,
thời đó và ngay cả bây giờ, đă bóp méo sự thật, mục đích đầu
độc dư luận thế giới, làm giảm uy tín của QLVNCH. Có như the, Cộng
Sản và phe ta trốn quân dịch, mới vừa chửi Mỹ , vừa tô son vẽ mặt
cho đạo quân tiền phong cong sản tại Đông Nam Á, tức Bắc Việt có một
chính nghĩa lư tưởng, đánh đuổi Mỹ-Ngụy cứu nước.
Đây cũng chính là nổi thảm thê chất ngất của người
Lính Miền Nam, trong hai mươi năm khói lửa. V́ định kiến, v́ buông xuôi, v́ thủ
đoạn con buôn quốc tế, tất cả đă dồn ép QLVNCH vào chân tường, trong
cuộc chiến đấu đơn độc, không hậu phương, không một chút
t́nh quân-dân, cá-nước
Hai mươi năm chiến đấu, đời lính buồn
ơi là buồn, trước mặt phải trực diện với một kẻ thù gian xảo
độc ác, mất hết thiên lương nhân tính v́ đă bị chủ nghĩa nhồi
sọ, cho nên chỉ biết có giết người để đạt mục đích được
khắc sâu trong da thịt. C̣n sau lưng bị thọc bởi hậu phương vô t́nh bạc
bẽo và cuối cùng trên đầu là đồng minh với đại bàng, luôn ŕnh rập
để phản bội và bán đứng. Mới đây có Nguyễn Thuỳ và Vũ Ngọc
Tiến, đă dùng bút vẽ lên bức tranh vân cẩu của cuộc chiến vừa qua, cho
ta thấy chỉ có Bộ Đội Bắc Việt hay Việt Cộng, v́ thèm khát đàn
bà, nên chỉ có chúng mới hăm hiếp phụ nử, chứ người lính VNCH đâu có lư
do ǵ, để mà cuồng dẩm cả xác chết của nử cán bộ VC ?
Cảm nhận đựợc thân phận nhược tiểu
của đất nước và sự bất hạnh của dân tộc, nên người lính
chấp nhận hy sinh đời trai, để làm tṛn bổn phận cùng trách nhiệm của
một con người có tim óc, cho tới trưa ngày 30-4-1975, khi TT.Dương Văn Minh bắt
buông súng đầu hàng.
Sau đó, cọng sản Hà Nội thẳng tay cướp bóc, chẳng
những mọi chiến lợi phẩm của chính phủ VNCH từ công ốc, ngân khố,
quân trang dụng, trong đó có mười sáu tấn vàng y, của quốc gia, được
Nguyễn văn Hảo giữ lại để nạp dâng công cho Bắc Bộ Phủ. Tệ
nhất là VC táng tận lương tâm, cướp luôn tài sản mồ hôi nước mắt
của đồng bào, mà trong số này, có nhiều mẹ chiến sỉ, đă từng nuôi
dấu cán binh bộ đội, ủng hộ vàng bạc lúa gạo cho chúng, trong suốt thời
gian chiến tranh.
Ngoài việc cầy mồ người chết để trả
thù bị thua VNCH trên chiến trường, VC c̣n hành hạ những phế binh, cô nhi tử
sĩ bị kẹt trong nước, với đủ thủ đoạn học được
từ KGB, mà mới nhất là chiến dịch ‘ đuổi tận, giết tuyệt
‘ các thành phần trên, đang sống tại các cḥi, dựng trong Nghĩa Địa Phước
B́nh, Sài G̣n.
Th́ ra cách mạng bảy mươi năm, để giải phóng
đất nước, mục đích cũng chỉ có thế thôi, nên từ đó theo thời
gian, hằng ngàn huyền thoại về ‘ Người Bộ Đội Miền Bắc,
Vượt Trường Sơn Vào Nam Đánh Mỹ Cứu Nước ‘, đă theo lớp
son phấn đảng tham nhũng, tham tàn, tham địa vị, tan biến theo lớp sóng
phế hưng của cuộc đổi đời mạt lộ.
Ba mươi mốt năm tan hàng ră ngũ, quân-dân Miền Nam đă
lần lượt đồng hành, qua hết chín tầng địa ngục trần gian nơi
thiên đàng xă nghĩa. Nhưng người lính Miền Nam, sinh ra trong khói lửa, trưởng
thành chốn chiến trường, nên thễ xác dù đă bị bầm giập tan nát, tinh thần
cuả người lính vẫn nguyên vẹn và không ai có thể thay đổi hay ngăn cản
lư tưởng của họ.
‘ dấu binh lửa nước non như cũ
kẽ
hành nhân qua đó chạnh thương
phận trai già rủi chiến trường
chàng
Siêu, tóc đă điểm sương mới về .’
(Chinh Phụ Ngâm Khúc )
1- TỪ QUÂN ĐỘI QUỐC GIA TỚI QUÂN LỰC VNCH :
Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh vô điều
kiện, sau khi bị Hoa Kỳ , thả hai trái bom Nguyên Tử xuống hai thành phố Trường
Kỳ và Quang Đảo. Lợi dụng thời cơ trên, quân viễn chinh Pháp theo quân Anh-Ấn
xâm nhập VN, chiếm Sài G̣n và Nam Kỳ. Ngày 2-9-1945, nhờ lực lượng OSS (tiền
thân của CIA) giúp súng đạn, nên chỉ có một nhóm rất ít cán bộ cọng sản,
đă áp đảo khủng bố được đồng bào, để cướp chính
quyền của quốc gia lúc đó, đang bị Pháp-Nhật và quan lại Nam Triều, quăng
bỏ lăng lóc một cách tội nghiệp, thê thảm bên vệ đường tại
Hà Nội, Huế, Sài G̣n.
Nhờ vậy, Hồ Chí Minh và đảng Việt-Cộng mới
có cơ hội, cho quân viễn chinh Pháp từ trong Nam, đổ bộ lên đất Bắc,
lúc đó đang do quân Trung Hoa đóng, theo lệnh của Liên Hiệp Quốc, để giải
giới quân Nhật từ vỹ tuyến 16 trở ra.
Theo mọi nguồn sử liệu c̣n lưu trữ, th́ chính Hồ
Chí Minh cùng Pháp, đả đồng thuận dựng lên một vở tuồng, trong đó
Pháp đă mớm lời cho Hồ Chí Minh kêu gọi TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN chống Pháp vào
năm 1946. Có kêu gọi, th́ Hồ Chí Minh và đảng cọng sản mới nhập nhằng
hợp thức hoá, vai tṛ lănh đạo Mặt Trận Việt Minh và đất nước.
Rồi v́ toàn dân VN nổi lên kháng chiến, nên thực dân Pháp mới có đủ lư do đem
quân từ Nam Kỳ ra Bắc Việt, cũng như biện minh với thế giới về
chính sách thực dân của ḿnh, trong khi nhân loại đang t́m đủ mọi cách xóa bỏ.
Cũng từ đó, người VN khắp mọi miền đất
nước, thay v́ đoàn kết chống thực dân, lại chia rẽ thành các khuynh hướng
chính trị khác nhau, khiến cho máu dân Việt lại tiếp tục đổ, để
cho màu cờ của đảng cọng sản thêm rực rỡ màu máu.
Trong giai đoạn lịch sử này, hai Lực Lượng Quân
Sự của Người Việt đă thành h́nh. Đó là Mặt Trận Việt Minh, một
phong trào kkáng chiến chống Pháp, của Tập Thể Người Việt yêu nước,
bị Hồ Chí Minh và đảng cọng sản đệ tam núp bóng, khống chế bằng
chủ thuyết Mác-LêNin.
Lực lượng thứ hai gọi là ‘ Quân đội Quốc-Gia
‘, thực chất cũng chỉ là mượn màu da thay xác chết, bị thực dân
Pháp và các lănh tụ chính trị áp đảo, lợi dụng.Tóm lại người Việt
lúc đó, cho dù có chiến đấu trong hàng ngũ nào chăng nửa, cũng chỉ tốn
xương máu vô ích mà thôi, v́ chỉ để phục vụ cho các chủ thuyết chính tri
quốc tế mà thôi.
Về sự thành h́nh của Quân Đội Quốc Gia cũng vô
cùng phức tạp nhưng cũng có thể tóm tắt qua bốn lư do chính sau đây :
+ PHÁP LỢi DUNG THÀNH PHẦN HỢP TÁC CŨ :
Ngay khi đặt được chân vào Sài G̣n sau tháng 9-1945, nhờ
sự giúp đỡ của quân Anh-Ấn, tới VN giải giới quân Nhật. Thực dân
đă sử dụng ngay các thành phần cộng tác cũ như công chúc, hương chức,
quan lại, kỳ hào, lính khố xanh khố đỏ, các dân tộc thiểu số Thái, Mường,
Nùng, Thổ, người Thượng cao nguyên Trung Phần, người Chàm, Khmer..để
h́nh thành một Lực Lượng Thân Binh. Chính những người này, mới là lực
lượng quân sự đầu tiên chống lại cọng sản đệ tam quốc
tế, qua b́nh phong Việt Minh, v́ họ bị kết tội là Việt Gian, luôn bị Việt
Cộng đuổi giết tận tuyệt., dồn sát vào chân tường, nên phải chống
lại v́ không c̣n con đường nào lựa chọn.
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY NGƯỜI QUỐC GIA THEO PHÁP :
Ngay khi Pháp được Hồ Chí Minh cho đổ bộ lên đất
Bắc, thế chân quân Lư Hán của Trung Hoa. Lúc đó, cọng sản đang núp bóng Mặt
Trận Kháng Chiến Việt Minh, để được độc quyền lèo lái toàn dân
và đất nước VN vào quỹ đạo của chủ nghĩa Lê-Mác. Ai cũng biết
Việt Minh là tố chức chống Pháp của cả nước, bao gồm mọi đảng
phái chính trị, chứ không phải của riêng đảng cọng sản đệ tam quốc
tế. Ngoài ra,các lực lượng quốc gia cũng đang cùng VC hợp tác chung trong Chính
Phủ Liên Hợp, để chống ngoại xâm.
Do đó, để độc quyền, độc đảng, Hồ
Chí Minh và đảng cọng sản đă thẳng tay tiêu diệt các đảng phái và những
ai đối lập. Do sự khủng bố trên, lực lượng quân sự thuộc các
đảng phái quốc gia trong mặt trận Việt Minh, phải tách rời đề sống
c̣n. Đây là một trong những thành phần chống lại cọng sản quyết liệt,
trong Chính Phủ Bảo Đại từ sau năm 1946-19
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI TÔN GIÁO VN, THÀNH THÙ ĐỊCH :
Với chủ trương hủy diệt mọi tôn giáo, Việt
Minh qua cọng sản Hà Nội, đă xô đẩy các tín đồ Phật, Thiên Chúa giáo nhất
là hai giao phái Phật Giáo Ḥa Hảo và Cao Đài , trở thành những lực lượng đối
nghịch chống lại cọng sản
+ CỘNG SẢN XÔ ĐẨY MỌI THÀNH PHẦN XĂ HỘI VÀO HÀNG NGŨ
QG :
Việt Minh qua sự khống chế của Đệ tam cọng
sản quốc tế, đă dùng bạo lực để tiêu diệt mọi thành phần đối
tượng xă hội như trí thức, địa chủ, tiểu tư sản, thợ thuyền..qua
các chiến dịch gọi là Diệt Tề và Phản Động, khiến cho một sốá
lớn thanh niên nam nử, đang chiến đấu trong hàng ngũ Việt Minh, đă bỏ
về vùng Pháp chiếm đóng.
Như vậy tất cả bốn lực lượng trên, đều
chung chủ trương chống lại cọng sản đệ tam, bắt đầu tư
năm 1957. Thực tế lực lượng quân sự của Quốc Gia VN, được
chính thức thành lập ngày 11-5-1950, cho tới khi kư kết Hiệp Định ngưng bắn
Genève năm 1954, vẫn trực thuộc Pháp.
Tháng 7-1954 chia hai đất nước, cho tới 12 giờ trưa
ngày 30-4-1975, VNCH được độc lập. Ngày 19-6-1965 được chính phủ Miền
Nam, chọn làm ngày QUÂN LỰC, và được tổ chức kỷ niệm hằng năm
, kể cả 31 năm sau ngày ră ngủ. Cũng từ đó, Quân Lực Việt Nam Cộng
Ḥa, lớn mạnh và trưởng thành , thoát khỏi ảnh hưởng của ngoại bang,
Nhờ vậy trong suốt hai mươi năm lửa binh tàn khốc, người lính Miền
Nam mới có đủ can trường, để chiến đấu và hy sinh, trong nhiệm
vu bảo vệ đất nước và tài sản của đồng bào, trước sự
xâm lăng của cọng sản.
Tóm lại nếu không bị Mỹ và bọn trí thức thiên tả
của Miền Nam bán đứng, chắc chắn VNCH, cũng như Tây Đức, Nam Hàn và
Đài Loan, không bị mất và sụp đổ vào tay Bắc Việt vào tháng 4-1975. Người
VN sẽ không bị tủi nhục v́ kiếp đầu đường xó chợ, qua thân
phận tị nạn, lao động, ban dâm và làm dâu bất đắc dĩ khắp chân trời
góc biển.
2 – QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG H̉A :
Lănh thổ VNCH được chia thành bốn vùng chiến thuật
và một biệt khu thủ đô. Tính tới ngày kư Hiệp Định ngưng bắn tháng
2-1973 tại Paris, QLVNCH có 220.000 Chủ-Lực quân, gồm Mười Một Sư Đoàn
Bộ Binh, mang số 1,2,3,5,7,9,18,21,22 và 25. Ngoài ra c̣n có Hai Sư Đoàn Tổng Trừ Bị
là SD.Nhảy Dù và SD.Thuỷ Quân Lục Chiến, mười lăm Liên Đoàn Biệt Động
Quân (quân số tương đương với một Trung Đoàn Bộ Binh, gồm 3 Tiểu
Đoàn và một Đại Đội Trinh sát) và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù thuộc
Binh Chủng Lực Lượng Đặc Biệt.
+ CÁC QUÂN BINH CHỦNG YỂM TRỢ :
* PHÁO BINH : Gồm 66 Tiểu Đoàn và 164 Trung Đội Pháo Biệt
Lập, với 1.492 khẩu pháo đủ loại (105-155-175 ly) và bảy Tiểu Đoàn Pháo
Binh Pḥng Không.
*THIÊT GIÁP : Gồm 22 Thiết Đoàn và 51 Chi Đoàn Thiết Giáp Biệt
Lập, sử dụng 2074 Xe Bọc Sắt đủ loại như M113,114 Thiết Vận
Xa và Chiến Xa M41, 48.
*KHÔNG QUÂN : Có 6 Sư Đoàn Chiến Thuật với quân số cơ
hữu trên 41.000 người, được phân phối như sau : Sư Đoàn 1 Không Quân
ở Đà Nẳng, SD 2- Không Quân ở Nha Trang, Sư Đoàn 3 Không Quân ở Biên Ḥa, Sư Đoàn
4 Không Quân tại Cần Thơ, Sư Đoàn 5 Không Quân ở Sài G̣n và Sư Đoàn 6 Không Quân-Pleiku.
Không Quân có 66 Phi Đoàn gồm 22 Phi Đoàn Chiến Đấu với 510 Phi Cơ đủ
loại, trong số này có 30 chiếc Phản Lực Cơ tối tân F.5E. Ngoài ra c̣n 25 Phi Đoàn
Trực Thăng Vơ Trang với 900 chiếc, năm Phi Đoàn Vận Tải với 80 phi cơ
từ C47,Dakota,C123,C130 và Mười Bốn Phi Đoàn Trinh Sát với 360 Trinh Sát Cơ.
Binh Chủng Không Quân có Trung Tâm Huấn Luyện Sĩ Quan Không Quân
tại Nha Trang, rất nổi tiếng. Sau ngày 30-4-1975, chỉ có 172 phi cơ đủ loại
của KQ.VNCH bay sang đươc Thái Lan và một số ít trực thăng, bay ra các chiến
hạm Mỹ ơ Biển Đông.
*HẢI QUÂN : Tính đến năm 1975, quân số lên tới 39.000
người, gồm 1611 tàu thuyền đủ loại, được phân thành 5 Vùng Duyên Hải,
Hai Vùng Sông Ng̣i và Một Hạm Đội Tuần Duyên có 83 Chiến Hạm đủ loại.
Hải quân có bốn Lực Lượng Đặc Nhiệm, thuộc
Hành Quân Lưu Động Sông : Lực Lượng 211 Thủy Bộ, Lực Lượng 212
Tuần Thám, Lực lượng 214 Trung Ương và Lực Lượng 99 Đặc Nhiệm.
Ngoài ra c̣n có Lực Lượng 213 Duyên Pḥng, Liên Đoàn Tuần Giang,
28 Duyên Đoàn, 20 Giang Đoàn Xung Phong, 3 Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, trong đó Trung
Tâm Huấn Luyện Nha Trang dành cho các Sĩ Quan Hải Quân
*CƠ CẤU TIẾP VẬN :Gồm năm Bộ Chỉ Huy Tiếp
Vận tại các Quân Khu, riêng Vùng II có 2 cơ cấu tiếp vận, BCH2 đóng tại Qui
Nhơn và BCH5 đóng tại Nha Trang, sau đó dời về bán đảo Cam Ranh, khi Mỹ
rút về nước.
Tổng Cục Tiếp Vận đóng tại Sài G̣n, gồm các cơ
cấu như Cục Quân Y, Quân Vận, Quân Cụ, Truyền Tin, Quân Bưu và Công binh. Tất
cả có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp cho các quân binh chủng cũng như
các Tiểu Khu, Quân Trường.
Ngoài các lực lượng chính quy trên, c̣n có thêm 140.000 Địa
Phương Quân, được tổ chức thành 367 Tiểu Đoàn và 85 Đại Đội
Biệt Lập. Tất cả cá đơn vi Địa Phương Quân được đặt
dưới quyền sử dụng của Tiểu Khu Trưởng, Chi Khu Trưởng.
Từ sau Tết Mậu Thân 1968, nhiều quân nhân Bộ Binh cũng
như các đơn vị tổng trừ bị, được thuyên chuyển v́ lư do gia cảnh
về nguyên quan. Do đó, nhiều Tiểu Đoàn DPQ tại Quảng Nam, B́nh Thuận, Long Khánh,
Hậu Nghĩa, Long An..đă chiến đấu kiêu dũng, hào hùng không thua kém bất cứ
một đơn vị nào của QLVNCH.
+ CÁC QUÂN TRƯỜNG VÀ ĐẠI ĐƠN VỊ NỔI TIẾNG CỦA
QLVNCH :
* SƯ ĐOÀN NHẢY DÙ : Là một trong những đại đơn
vị hàng đầu và kiêu hùng của QLVNCH. Binh chủng Nhảy Dù rất có kỹ luật,
kỷ cương nên được sự mến mộ của đồng bao Miền Nam
trong suốt cuộc chiến. Đơn vị này chính thức được thành lập
ngày 29-9-1954, khi Pháp giao lại cho Quân Đội VNCH, Chiến Đoàn 3 Nhảy Dù (6A-P3), gồm
các Tiểu Đoàn 1, 3,4,5,6,7 do Thiếu Tá Đổ Cao Trí làm Chỉ Huy Trưởng.
Ngay khi trở thành đơn vị chiến đấu ṇng cốt
của VNCH, Nhảy Dù đă nhập cuộc, đánh tan lực lượng phản loạn
của B́nh Xuyên tại Sài G̣n-Chợ Lớn, cuối cùng tiêu diệt chúng tại sào huyệt
ở tận Rừng Sát (Phước Tuy). Ngày 26-10-1959, Nhảy Dù được nâng từ
Liên Đoàn lên Lữ Đoàn và do Trung Tá Nguyễn Chánh Thi, làm Lữ Đoàn Trưởng.
Do nhu cầu cuộc chiến càng lúc càng sôi động và leo thang,
kể từ ngày 1-2-1965, lần nữa Nhảy Dù lại được nâng lên cấp Sư
Đoàn, với đầy đủ các cơ cấu trực thuộc, từ đơn vị
tác chiến tới yểm trợ. Sư Đoàn có ba Lữ Đoàn tác chiến, ba Tiểu Đoàn
Pháo Binh Dù, Một Tiểu Đoàn Công Binh, Một Tiểu Đoàn Quân Y, Các Đại Đội
Trinh Sát, Điện Tử, Kỹ Thuật. Từ năm 1965 tới 1972, Trung Tướng Dư
Quốc Đống là Tư Lệnh Nhảy Dù. 1972 tới cuối tháng 4-1975, Tư lệnh
Nhảy Dù là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng.
Vào những ngày tháng 4-1975, Sư Đoàn Dù thành lập thêm Lữ Đoàn
4 Nhảy Dù, do Trung Tá Lê Minh Ngọc làm Lữ Đoàn Trưởng. Chính Đơn Vị này,
đă cùng với Chiến Đoàn 3, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, đánh những trận cuối
cùng tại vùng ven đô và ngay trong thành phố Sài G̣n, giống như các chiến sĩ của
SD18BB tại Xuân Lộc, làm vỡ mật quân xâm lăng Bắc Việt, trước khi Miền
Nam bị sụp đổ.
* SƯ ĐOÀN THỦY QUÂN LỤC CHIẾN : Từ ngày thành lập
cho tới khi ră ngủ, binh chủng TQLC đă cùng với Nhảy Dù, Biệt Cách và Biệt
Động Quân, vẫy vùng khắp bốn vùng chiến thuật và mặt trận ngoại
biên.
Chính các điạ danh Đầm Dơi (An Xuyân), Thành phố Huế,
quốc lộ 9 và nhất là Cổ Thành Đinh Công Tráng (Quảng Trị)..đă đưa
tên tuổi người lính TQLC/VN vào quân sử, hănh diện đứng ngang hàng với các quân
binh chủng thiện chiến nhất trên thế giới.
Binh chủng TQLC được chính thức thành lập vào tháng
10-1954, với quân số nồng cốt được tuyển chọntừ mọi binh chủng
như Hải quân, Bộ binh và Biệt Kích. Với quân số ban đầu chừng 2400 người,
TQLC thành lập Tiểu Đoàn 1 và các Đại Đội Biệt Lập. Chính Tiểu Đoàn
1/TQLC vào năm 1959, khi được Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, giao cho trọng trách,
trấn giữ quần đảo Hoàng Sa. Nhờ vậy đơn vị này mới có cơ
hội đánh đuổi Hải Quân Trung Cộng tới chiếm quần đảo trên,
khi Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, kư bán lănh thổ VN cho Tàu vào năm 1958.
Từ đầu năm 1961, TQLC được tăng quân số
lên 3321 người, chia thành bốn Tiểu Đoàn và các đơn vị yểm trợ, trực
thuộc Bộ Tổng Tham Mưu. Ngày 1-1-1962 được nâng thành Lữ Đoàn, có quân số
5483 người. Trong dịp Việt Nam hoá chiến tranh, TQLC được nâng thành Sư
Đoàn hơn 11.000 người, từ năm 1969 tới khi tan hàng. Tư lệnh cuối cùng
của binh chủng này là Thiếu tướng Bùi Thế Lân.
* BIỆT ĐỘNG QUÂN : Trong các đơn vị tổng trừ
bị của QLVNCH, binh chủng Biệt Động Quân bị thiệt tḥi nhất, từ
cơ cấu tổ chức cho tới vấn đề biệt phái xử dụng. Nguyên do
v́ BDQ không có Bộ Tư Lệnh mà chỉ có Bộ Chỉ Huy, qua các vị Chỉ Huy Trưởng
như Thiếu Tá Phan Trong Chinh, Đại Tá Lam Sơn, Đại Tá Phan Xuân Nhuận, Đại
Tá Trần Văn Hai, Đại Tá Trần Công Liễu và Thiếu Tướng Đổ Kế
Giai. Những ngày cuối cùng tháng tư đen, BDQ được nâng thành Sư Đoàn .
BDQ được thành lập năm 1960, là một binh chủng biệt
động cảm tử, nên được sử dụng tối đa trong các cuộc hành
quân trực thăng vận, nhảy vào tận sào huyệt của VC, tại căn cứ hậu
cần và mật khu, khắp bốn vùng chiến thuật. Từ ngày thành lập tới khi
ră ngủ, BDQ có 15 Liên Đoàn gồm 45 TD chiến đấu.
BDQ có hai trung tâm huấn luyện tâi Trung Ḥa (Củ Chi-Hậu Nghĩa)
và Dục Mỹ (Khánh Ḥa). Đây chính là ḷ luyện thép, huấn luyện tân binh cùng với các
Khoá học về Rừng Nuí Śnh Lầy-Biệt Động, cho các cấp Hạ Sĩ quan
và Sỉ Quan/QLVNCH.
Trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai
(1960-1975), dân chúng sống ở Vùng 4 Chiến Thuật, không ai là không biết tới uy danh lừng
lẫy của những Con Cọp, thuộc các Tiểu Đoàn 41,42,43 và 44 BDQ. Năm 1967, Tiểu
Đoàn 37 BDQ là đơn vị duy nhất của QLVNCH, được biệt phái cho Hoa Kỳ,
để trấn giữ căn cứ Khe Sanh. Trong suốt thời gian chiến đấu,
TD này đă giữ vững pḥng tuyến, dù bị bắt làm tiền đồn và bị cọng
sản tấn công biển người.Sự kiện trên, đă làm cho các quân nhân Hoa Kỳ
thêm kính nể QLVNCH. Ngoài ra, hai Tiểu Đạn 21 và 39 BDQ thuộc Liên Đoàn 1/BDQ cũng là những
đơn vị thiện nhất của binh chủng, làm rạng rỡ màu mủ nâu, trong
cuộc hành quân Lam Sơn 719 và tại mặt trận Sa Huỳnh (Quảng Ngải) năm 1973.
Riêng TD 43 BDQ là đơn vị cuối cùng, tử thủ tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang
Trung, tới trưa 30-4-1975, mới buông súng ră ngũ khi có lệnh bắt đầu hàng.
Từ
năm1966, binh chủng BDQ cải tổ và thành lập các Liên Đoàn, đặt trực thuộc
Quân Đoàn. Ngày nay khi nhớ về binh chủng, những quân nhân các cấp của BDQ luôn hănh
diện v́ đă làm xong trách nhiệm đời trai. Nhiều cấp chỉ huy của binh chủng,
đă đi vào quân sử như Chuẩn Tướng Trần văn Hai, Đại Tá Hồ
Ngọc Cẩn, Trung Tá Vơ Vàng, Thiếu Tá Trần Đ́nh Tự..
* LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT : Chính thức thành lập
từ năm 1957 cho tới ngày 1-1-1963, binh chủng LLDB thuộc Sở Liên Lạc Phủ Tổng
Thống, gồm ba cơ cấu : Sở Bắc (sau đổi thành Nha Kỹ Thuật), Sở
Nam (sau đổi thành Sở Liên Lạc) và Các Toán Lực Lượng Đặc Biệt.
Sở Bắc đặc trách chiến lược t́nh báo ngoài lănh
thổ VNCH. Sở Nam trách nhiệm t́nh báo trong nước. Các Toán LLDB c̣n được gọi
Biệt Kích hay Biệt Cách. Đây là những đơn vị cảm tử, chuyên hoạt
động sâu trong ṿng địch đóng, không được quân bạn yểm trợ, nên
mọi trường hợp nguy cấp, người Biêt Kích Quân, phải tự mưu sinh để
sống c̣n. Từ năm1966, Hoa Kỳ chuyển giao toàn bộ lực lượng Dân Sự
Chiến Đấu (Mike Forces) cho Bộ Tư Lệnh LLDB/VN.
Là một binh chủng đặc biệt trong chiến tranh qui ước,
nên quân số LLDB đă có lúc lên tới 36.000 người, bao gồm 66 Trại Lực Lượng
Đặc Biệt, nằm rải rác dọc theo biên giới Việt-Lào-Miên. Đây chính là những
chướng ngại vật của cộng sản Bắc Việt, trên đường xâm
nhập vào lănh thổ VNCH. V́ vậy từ năm 1965 về sau, nhiều trận đánh đẫm
máu giữa bộ đội Hà Nội và LLDB tại Pleiku, Ben Het, Đức Cơ, Dakto, Đồng
Xoài, Lộc Ninh, Tống Lê Chân, Kàtum, Bến Sỏi..
Bắt đầu từ năm 1970, các trại LLDB tại vùng biên
giới bị giải tán, nên Biệt Kích Quân tại đây được chuyển sang Biệt
Động Quân Biên Pḥng. Riêng quân số của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta và Tiểu
Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được nhập chung thành Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, trực
thuộc Pḥng 3 Bộ TTM.
Những ngày cuối tháng 4-75 của đất nước, Chiến
Đoàn 3 của LD81 BCD về bảo vệ Bộ TTM, đă tiêu diệt nhiều tăng pháo
của Bắc Việt tại Ngă Tư Bảy Hiền, Bệnh Viện V́ Dân, Lăng Cha Cả
Sài G̣n. Hai câu thơ bất hủ của một cô giáo, bị kẹt lại trong Mặt Trận
An Lộc vào năm 1972, đă nói lên tinh thần quyết chiến và sự hy sinh tột cùng
của người chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt :
‘ An
Lộc Địa – Sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù – Vị Quốc
vong thân . ‘
*TRƯỜNG VƠ BỊ QUỐC GIA ĐÀ LẠT : Chính thức
được thành lập tại Huế năm 1948, với nhiệm vụ đào tạo
các sĩ quan trung đội trưởng. Năm 1950, trường di chuyển lên cao nguyên Đà
Lạt và đổi tên là Trường Vơ Bị Liên Quân. Ngày 29-7-1959, Bộ Quốc Pḥng ban
hàng Nghị Định số 317, cải tổ cơ sở huấn luyện trên thành một
Trường Cao Đẳng chuyên nghiệp. Theo đó các sĩ quan tốt nghiệp , ngoài căn
bản quân sự vững chắc, c̣n có tŕnh độ văn hóa tương đương
với bậc đại học. Nhưng dù lư thuyết là thời gian thụ huấn phải
đủ bốn năm và tŕnh độ sinh viên được nhập khóa, phải có chứng
chỉ Tú Tái Phần 2-ban A-B, nhưng thực tế các khóa học, cũng không đồng
nhất và hoàn toàn tuỳ theo hoàn cảnh.
Do đó, từ khóa 1 tới khóa 11 phụ,
thời gian học chỉ trên một năm.
Từ khóa 12 tới khóa 22A năm 1965, thời
gian thụ huấn từ 1 năm rưởi – 3 năm.
Bắt đầu khóa 22B
(20-11-1965) cho tới khóa 27, thời gian thụ huấn đúng 4 năm.
Kháo 28 chỉ
học 3 năm rưởi.
Khóa 29 học 2 năm rưởi.
Khoá 30 cuối cùng,
nhập học ngày 31-1-1974, tới đầu tháng 4-1975, di tản về học chung với
Trường Bộ Binh Thủ Đức, được di chuyển tới Long Thành (Biên
Ḥa) và tan hàng. Chỉ Huy Trưởng đầu tiên của Trường Vơ Bị là Trung Tá
Chaix (1949) và cuối cùng là Thiếu Tướng Lâm Quang Thơ.
Tọa lạc trên dăy đồi hùng vỷ của cao nguyên Lâm Viên,
ngất ngưởng giữa trời xanh lộng gió, Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà
Lạt bề thế, với lối kiến trúc tân kỳ, gồm đủ các pḥng ốc,
thư viện và pḥng thí nghiệm. Tất cả do nhà thầu Hoa Kỳ đảm trách, đưa
ngôi trường lên địa vị ngang hàng với các quân trường nổi tiếng nhất
vùng Đông Nam Á, cũng như trường Vơ Bị West Point của Mỹ.
Những thanh niên thời đại của Miền Nam VN trong cơn
ly loạn, ai nấy đều ao ước được trở thành Sĩ Quan Đà Lạt,
nhưng một số không toại nguyện v́ sau này, điều kiện nhập học rất
khó khăn. Sinh viên ngoài việc phải có chứng chỉ Tú Tài Phần 2-AB, c̣n phải qua một
kỳ thi tuyển. Với các thiếu nữ VN, th́ rất hănh diện khi được sóng
đôi với người yêu, trong bộ lễ phục Gabardine mùa đông, có màu Jasper với
huy hiệu của Trường, trên cầu vai đỏ và nón két. Từ năm 1948 cho tới
khi Miền Nam bị sụp đổ, Trường Vơ Bị đă đào tạo được
4600 sĩ quan. Nhiều người được thăng cấp tướng, giữ các
chức vụ then chốt trong quân đội cũng như các cơ cấu của chính phủ.
* TRƯỜNG BỘ BINH THỦ ĐỨC : Từ tháng 10-1951, để
đáp ứng nhu cầu chiến trường, hai trung tâm đào tạo sĩ quan trừ bị
được thành lập tại Nam Định (Bắc Phần) và Thủ Đức (Nam
Phần). Chính khóa 1 SQTB đă được khai giảng cả hai nơi kể trên.
Để thống nhất việc giảng dạy, đầu năm
1952, trung tâm Nam Định được sáp nhập vào Thủ Đức . Ngôi trường
tọa lạc trên dăy đồi thấp thuộc xă Tăng Nhơn Phú, quận Thủ Đức,
tỉnh Gia Định. Từ đó trường liên tục được xây cất và chỉnh
trang, trở thành một trong những trường Vơ Bị, đẹp và lớn nhất vùng
Đông Nam Á.
Cuối năm 1955, trường Bộ Binh Thủ Đức trở
thành Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức, vừa đào tạo Sĩ Quan Trừ Bị
Bộ Binh, vừa huấn luyện chuyên môn cho các binh chủng như Thiết Giáp, Pháo Binh,
Công Binh, Truyền Tin , Quân Nhu, Quân Cụ và Quân Vận. Từ sau tháng 10-1961, phần lớn
các trường chuyên môn được dời tới các địa điểm mới nhưng
danh xưng Liên Trường, vẫn c̣n được xử dụng, v́ tại Trung vẫn
có ba trường hiện diện : Trường Bộ Binh-Trường Thiết Giáp –Trường
Vơ Thuật Thể Dục Quân Sự.
Chương tŕnh huấn luyện cho sinh viên sĩ quan Thủ Đức
gồm hai giai đoạn. Bắt đầu từ khóa 6 trở về sau, sinh viên tốt nghiệp
mang cấp bậc Chuẩn uư trừ bị. Từ tháng 2-1969 cho tới ngày 30-4-1975, trung tâm
trở lại danh xưng củ ‘ Trường Bộ Binh Thủ Đức ‘. Sau
24 năm hoạt động, trường đă đào tạo được 69 khóa Sĩ
Quan trừ Bị, với 80.000 Sĩ Quan. Trong số này nhiều người đă trở
thành tướng lănh rất có tên tuổi như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Tư
Lệnh QĐ1), Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lệnh QĐ4), Thiếu Tướng
Bùi Thế Lân (Tư Lệnh TQLC, Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan (Tổng Giam Đốc
CSQG)…
Ngày 27-4-1975, trường từ Long Thành dời về Thủ Đức
, tại địa điểm củ ở đồi Tăng Nhơn Phú. Sáng 30-4-1975, xe tăng
T54 của cọng sản Bắc Việt tấn công trường nhưng cả 4 chiếc
đều bị sinh viên sĩ quan tiêu diệt bằng đại bác 105 bắn trực xạ
cũng như M72 và lựu đạn lân tinh.
* TRUNG TÂM HUẤN LUYỆN HẢI QUÂN NHA TRANG : Tọa lạc tại
đường Duy Tân Nha Trang, chính thức khai giảng từ tháng 8-1952 nhưng phải tới
tháng 7-1955, trường mới thuộc chủ quyền hoàn toàn của VNCH.
Muốn được theo học, các sinh viên Hải Quân phải
có Chứng chỉ Tú Tài 2-Ban B. Thời gian thụ huấn là 2 năm, về văn hóa sinh viên
có tŕnh độ tương đương bậc đại học. Ra trường, tốt
nghiệp mang cấp bậc Thiếu Úy Hải Quân.
Do nhu cầu chiến trường, từ năm 1962-1968, sinh viên
HQ chỉ học 18 tháng. Bắt đầu khóa 18 cho tới khóa cuối cùng là 26, sinh viên học
đủ 2 năm. Suốt thời gian hoạt động, trường đă đào tạo
được 2538 Sĩ Quan Hải Quân và 15.050 Chuyên viên Ngành HQ. Chỉ Huy Trưởng cuối
cùng của trường là Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu (16-1-1973 tới 1-4-1975).
* LIÊN ĐOÀN NGƯỜI NHÁI : Nếu trên bộ có Biệt Kich-Biệt
Cách, th́ dưới nước có Người Nhái. Họ là những thanh niên thời đại,
sống bằng lư tưởng nên xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, khi được
giao phó những nhiệm vụ đặc biệt, vô cùng nguy hiểm như ngăn chống
lại Đặc Công Thủy của Bắc Việt, vớt ḿn, gở thủy lôi, cứu
tù binh..
Được thành lập từ năm 1961, với danh xưng là
‘ Liên Đội Người Nhái’, được huấn luyện tại Đài Loan.
Bắt đầu từ tháng 10-1962, Người Nhái Mỹ ( Seal West Coast ), phụ trách huấn
luyện cho Người Nhái VNCH, tại các Trung Tâm Cát Lái, Nha Trang, Cam Ranh và Vũng Tàu. Muốn
trở thành Biệt Hải, Người Nhái..các quân nhân phải trải qua nhiều khóa huấn
luyện gian khổ, giống như sự đào tạo một Điệp Viên Ngoại Hạng,
trong chiến tranh nhà nghề. Do đó Người Nhái biết sử dụng tất cả
cac loại vũ khí của Tây Phương cũng như Khối Cọng Sản, biết cách
hoạt động, mưu sinh cũng như đào thoát , v́ địa bàn hoạt động
bao giờ cũng nằm sâu trong đất địch, không có quân bạn và yểm trợ.
Thời gian huấn luyện của Người Nhái là 16 tuần, kể cả 10 tuần lễ
Địa Ngục. Từ năm 1972 về sau, quân số Người Nhái tăng lên 600 người
và trở thành Liên Đoàn Người Nhái , gồm các Toán Hải Kích, Biệt Hải, Tháo Gỡ
Đạn Dược, Trục Vớt, Pḥng Thủ Hải Cảng. Có tất cả 6 Khóa Huấn
Luyện Người Nhái và Đơn Vị Trưởng cuối cùng của Người Nhái
là Hải Quân Trung Tá Trịnh Ḥa Hiệp.
3- CÁC VỊ TƯỚNG LĂNH CỦA QLVNCH :
Từ ngày thành lập cho tới khi sụp đổ, QLVNCH có hơn
100 vị tướng lănh. Người có cấp bậc cao nhất trong quân đội là Cố
Thống Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng QDVNCH. Nhiều tướng
lănh đă tử trận trước ngày 30-4-1975 như Cố Đại Tướng Đổ
Cao Trí, tướng Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên, Trương Quang Ân, Lê Đức
Đạt, Nguyễn Văn Hiếu. Ngày 30-4-1975, khi TT Dương Văn Minh ra lệnh đầu
hàng, các tướng lănh Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn
Hai, Lê Nguyên Vỹ ..đă lần lượt tự sát để bảo toàn danh dự quân đội
và khí tiết của kẻ sĩ. Các tướng Lư Ṭng Bá, Nguyễn Vĩnh Nghi,Phạm Văn
Sang, Trần Văn Cẩm..bi sa cơ giữa trận, c̣n Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn,
Tỉnh Trưởng Chương Thiện, bị VC hành quyết tại Cần Thơ vào ngày
1-5-1975 v́ không tuân lệnh đầu hàng.
Sau đó hơn phân nửa các tướng lănh không bỏ chạy,
đều bị bắt đi tù tại các trại giam khổ sai từ Nam ra Bắc, tận
biên giới Viêt-Lào-Hoa. Chịu cảnh tù tội gần 17 năm, lâu nhất là các tướng
Lê Minh Đảo, Trần Quang Khôi, Dỗ Kế Giai, Lê Văn Thân và Trần Bá Di.
Từ ngày thành lâp cho tới khi ră ngủ ngày 30-4-1975, QLVNCH có hơn
100 tướng lănh. Nhiều vị đă anh dũng nằm xuống giữa chiến trường
như Đổ Cao Trí, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Bá Liên..hoặc bỏ xác trong chốn
lao tù cọng sản tận miền biên giới Hoa-Lào-Việt. Nói chung chỉ có một số
rất ít, tham sống bỏ binh sĩ thuộc cấp, đeo máy bay Mỹ chạy ra ngoại
quốc để chết già chết nhục trong sự quên lăng và cười khinh của
miệng đời.
Nhưng may thay, giữa những kẻ hèn hạ cúi mặt ra đi,
trong hàng ngủ tướng lănh Miền Nam, c̣n có rất nhiều khuông mặt LỚN đầy
UY VŨ HIÊN NGANG, chấp nhận cái chết liệt oanh làm banh mặt kẻ thù lúc đó, góp
phần với đồng bào và các chiến sĩ vô danh anh hùng khác, , nêu tấm gương
bất khuất của người lính trận, cái tiết tháo ngàn đời của đấng
sĩ phu trí thức Hồng-Lạc và trên hết là cái TRÁCH NHIỆM-DANH DỰ của Cấp
Chỉ Huy, Lănh Đạo : ‘Sinh vi Tướng, Tử Vi Thần – Nhất tướng
công thành vạn cốt khô nên Thành Mất Phải Mất Theo Thành ‘. Những danh tướng
VN Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai..ngay
khi tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh bắt QLVNCH buông súng, ră ngủ đầu
hàng Cọng Sản Đệ Tam Quốc Tế lúc trưa ngày 30-4-1975, các vị trên đă tự
t́m cái chết vinh, làm hănh diện cho màu cờ và sắc áo của QLVNCH, măi măi trong ḍng sử
oai hùng Nước Việt.
* THIẾU TƯỚNG PHẠM VĂN PHÚ :
Xuất thân từ binh chủng Nhảy Dù, từng tham gia Mặt
Trận Điện Biên Phủ năm 1954. Nguyên Tư Lệnh Quân Đàn II từ 1974-1975. Viết
về Tướng Phú, hầu như các sử gia cận đại trong và ngoài nước,
phần nào quy trách nhiệm cho ông, trong trận Ban Mê Thuộc thất thủ vào tháng 3-1975. Kế
tiếp là cuộc lui quân từ Pleiku về Tuy Ḥa, trên Liên Tỉnh Lộ 7-B hoàn toàn thất
bại, làm tan vở gần hết lực lượng hùng hậu của Quân Đoàn II.
Hậu quả lam hằng trăm ngàn đồng bào vô tội và
binh sĩ các cấp đă chết thảm trong khi di tản, v́ các cấp chỉ huy cuộc
lui quân từ Bộ Tổng Tham Mưu ở Sài G̣n, cho tới ngoài mặt trận, chia rẽ
đố kỵ, làm mất hết yếu tố thành công, khác xa với cuộc lui quân đêm
20-4-1975 của SD18BB +LD1ND + TK.Long Khánh + TD82BDQ do tướng Lê Minh Đảo đi bộ chỉ
huy, trên Liên Tỉnh Lộ 2, lính và dân hầu hết đều được về tới
Bà Rịa, kể cả TD2/43/SD18BB của Thiếu Tá Nguyễn Hửu Chế, đoạn hậu
trong cuộc lui quân thần tốc này.
Tự biết ḿnh là vị tướng trấn giữ biên cương,
không làm tṛn trách nhiệm trước đồng bào và quân sĩ dưới quyền, tướng
Phú đă khẳng khái kết thúc đời ḿnh bằng độc dược ngày 1-5-1975, dù
ông có phương tiện để chạy ra ngoại quốc như một vài tướng
lănh khác. Ông chết trước là để tạ tôi với quốc dân và trên hết là chứng
tỏ với giặc Cộng, cái uy vũ của người làm tướng Miền Nam, không
phải ai cũng hèn hạ như VC từ Hồ Chí Minh, Vơ Nguyên Giáp..khi sa cơ đă tàn nhẩn
bán rẽ đồng đội ḿnh cho địch,, để đổi lấy tiền bạc
và mạng sống cá nhân.
* THIẾU TƯỚNG NGUYỄN KHOA NAM :
Tư Lệnh quân đoàn IV tại Cần Thơ. Ông sinh trưởng
trong một gia đ́nh danh giá đạo đức tại Thừa Thiên và xuất thân từ
Binh chủng Nhảy Dù. Trong cuộc đời binh nghiệp, Ông là một trong những tướng
lănh Miền Nam, cho tới ngày cuối cùng, luôn được tiếng là liêm chính, nghiêm minh
và đạo đức.
Ngày 30-4-1975, dù Sài G̣n bị VC tấn công tứ phía nhưng gần
hết lănh thổ Quân Khu IV, quân lực VNCH và các cấp chỉ huy tại các tiểu khu vẫn
c̣n nguyên vẹn và giũ vững tinh thần. Khi Tổng Thống Minh nghe theo sự xúi giục
của Nguyễn Hửu Hạnh và đám VC nằm vùng, bắt QLVNCH buông súng đầu hàng.
Tướng Nam tuân hành theo lệnh thượng cấp và kỷ luật quân đội nhưng
nhất quyết không bỏ chạy cũng chịu nhục trước giặc xâm lăng.
V́ vậy ông đă dùng súng tự kết liểu đời ḿnh, ngay trong văn pḥng Tư Lệnh
quân đoàn tại Cần Thơ, trong sự vô cùng thương tiếc của thuộc cấp
và binh sĩ dưới quyền, trong đó có cố Đại Tá Tỉnh trưởng Chương
Thiện là Hồ Ngọc Cẩn, cùng binh sĩ, không chịu buông súng đầu hàng.
* THIẾU TƯỚNG LÊ VĂN HƯNG :
Ông sinh năm 1933 tại Hốc Môn, tỉnh Gia Định. Nguyên
Chuẩn Tướng Tư Lệnh Phó quân đoàn IV. Là người hùng, khi c̣n là Tư Lệnh
SD5BB, đă cùng với Chuẩn tướng Trần Văn Nhựt, lúc c̣n làm Tỉnh Trưởng
B́nh Long, đă giữ vửng An Lộc, trong suốt 68 ngày bị 4 SD Bắc Việt vây hảm,
trong mùa hè đỏ lửa 1972. Từ năm 1973, Tướng Hưng về làm Tư Lệnh
SD21BB, sau đó là Tư Lệnh Phó QDIV.
Ngày 30-4-1975, sau khi Dương Van Minh đầu hàng giặc, Thiếu
Tướng Nam tuẩn tiết tại văn pḥng tư lệnh. Tướng Hưng về
nhà, từ giả thân quyến, bạn bè và binh sĩ dưới quyền, rồi tự sát
lúc 8 giờ 30 tối cùng ngày, để măi măi cùng với các anh hùng liệt nử, đi vào
thanh sử VN muôn đời.
* CHUẨN TƯỚNG LÊ NGUYÊN VỸ :
Nguyên Tư Lệnh SD5BB, một SD dă chiến từ Bắc Việt
di cư vào Nam từ năm 1955, trải qua nhiều vị tư lệnh nổi tiếng như
Woàng A Sáng, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Văn Hiếu, Lê Văn Hưng và cuối cùng
là Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ từ 1974 cho tới khi tàn cuộc chiến. SD5BB đă
trấn giữ nhiều năm vùng đất, tuy sát nách Sài G̣n nhưng hung hiểm, bao gồm
các tỉnh B́nh Dương, B́nh Long và Phước Long.
Tướng Vỹ đả bảo toàn được lănh thổ
gần như nguyên vẹn, cho tới khi có lệnh đầu hàng. Noi gương tiền nhân
bất khuất, trước toàn thể sĩ quan các cấp thuộc Bộ Tư Lệnh
SD5BB tại căn cứ Lai Khê – B́nh Dương, Tướng Vỹ đă dùng khẩu
súng lục Beretta 6,35 ly, từng đeo bên ḿnh nhiều năm, để bắn vào đầu
tự sát.
* CHUẨN TƯỚNG TRẦN VĂN HAI :
Ông xuất thân khóa 7 trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt,
sinh năm 1926 tại Cần Thơ (tài liệu của Nguyễn Thanh Vân). Ông xuất thân từ
Binh chủng Biệt Động Quân và là một trong những người có công lớn, trong
việc hoàn thành Trung tâm huấn luyện BDQ. Dục Mỹ năm 1961. Đây là ḷ luyện thép
đúng nghĩa, trong việc đào tạo quân nhân các cấp của binh chủng biệt động,
chuyên hành quân rừng núi śnh lầy. Trước khi trở thành Tư lệnh SD7BB. Chuẩn
tướng Hai, đă giữ chức Chỉ Huy Trưởng BDQ/QLVNCH, góp phần lớn trong
việc đánh đuổi cọng sản đệ tam quốc tế, ra khỏi thủ đô
Sài G̣n-Chợ Lớn-Gia Định, trong trận Tết Mậu Thân 1968.
Theo bước các cấp chỉ huy tại quân đoàn IV anh hùng là
Thiếu Tướng Nam, Chuẩn tướng Hưng..nên ông đă tự sát tại căn
cứ Đồng Tâm của BTL.SD7BB vào trưa ngày 30-4-1975. Thi hài ông đă được thuộc
cấp, nhân lúc cọng sản đang say men vơ vét chiến lợi phẩm, mang về tận
Sài G̣n giao cho gia đ́nh an táng.
Đúng như lời nhận xét thật vô cùng chí lư của Thiếu
tướng Mỹ George Wear’ khi quân sĩ VNCH được chỉ huy bởi các cấp
lănh đạo cũng như tướng lănh giỏi, đạo đức, th́ Họ chiến
đấu xuất sắc như bất kỳ một quân đội của các nước
trên thế giới, mà điển h́nh nhất là trận đánh cuối cùng tháng 4-1975 tại
Xuân Lộc-Long Khánh, đă làm cho tập đoàn lănh đạo cọng sản, tại Bắc
Bộ Phủ phải run sợ và la làng, v́ bị thương vong và thiệt hại quá to lớn,
hơn bất cứ một trận đánh nào đă xảy ra trong chiến cuộc Đông
Dương lần thứ 2 (1955-1975).’
Câu nói trên đă được chứng minh một cách trung thực
về khả năng tác chiến thần thánh của QLVNCH, trong viêc ngăn chân và tiêu diệt
giặc Bắc xâm lăng. Nhưng tiếc thay những bậc sĩ quan các cấp, đạo
đức tài giỏi th́ bạc mệnh, đa truân cũng như những cấp lănh đạo
anh minh, lại vô quyền bất lực. T́nh trạng VNCH như thế làm sao không mất nước
vào tạy đệ tam cọng sản quốc tế, y như nước Sở thời Chiến
quốc, vua u mê, quần thần xu nịnh ngu dốt, nên cuối cùng bị Tần quốc
thôn tính tiêu diệt.
4-NHỚ ƠN ANH : NGU7ỜI LÍNH BẤT HẠNH VNCH
Hai mươi năm chinh chiến, người Lính VNCH đă có 250.000
gục ngă trước đạn thù và nửa triệu thương binh chịu đời
bất hạnh v́ một phần cơ thể đă gửi lại sa trường. Hiện
nay Chính Phủ cũng như QLVNCH không c̣n nửa, nhưng trong tâm tư của mọi người
được sống sót qua cuộc đổi đời mạt kiếp, th́ lư tưởng
và danh dự của Người Lính , càng được sáng tỏ, trong niềm hănh diện
chung của quân-dân Miền Nam.
Lịch sử của một quốc gia là những ǵ trung thực
, mà người dân của nước đó đă ghi chép không hề thêm bớt. Nhờ vậy
ta mới biết được về cuộc nội chiến của Hoa Kỳ , xảy
ra từ năm 1861-1865, cùng với thái độ của dân chúng và chính quyền nước
Mỹ tại Miền Bắc là kẻ thắng trận, đă không hề lên án, bỏ tù hay
trả thù những người Miền Nam bại trận. Đă vậy, Hoa Kỳ c̣n ghi ơn
tất cả những chiến sĩ của hai miền vừa nằm xuống trong cuộc
chiến, v́ lư tưởng riêng của họ.
Thế chiến 2 kết thúc, Ṭa Án quốc tế Nuremburg, chỉ
kết tội những Đầu Sỏ trong phe Trục, mà không hề bắt bớ hay gây
khó khăn cho quân nhân các nước Đức-Ư-Nhật.. Năm 1920, Lănh tụ kháng chiến
quân Libya là Tướng Mukhta, bị người Ư bắt và tử h́nh. Nhưng chính Tổng
Tư Lệnh Ư tại Bắc Phi , là người đă ở lại pháp trường, để
lo lắng hậu sự cho vị anh hùng dân tộc Libya, vốn là kẻ thù của người
Ư lúc đó.
Tại VN, khi thực dân Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền tây
Nam Phần năm 1867, sau đó là thành Hà Nội năm 1873. Các tướng lănh thủ thành đương
thời là Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu..đă oanh liệt tử
tiết theo thành mất và được kẻ thù là người Pháp, tôn kính mặc niệm
như chính các tướng lănh của họ. Sau rốt là số phận của 500.000 quân nhân
Mỹ đă tham chiến tại VN, trong số này hơn 50.000 người tử trận. Ngày
nay các chiến sĩ trên đă được quốc dân Hoa Kỳ trả lại công lư và danh
dự, để họ hiên ngang ưỡn ngực, cũng như an giấc ngh́n thu, bên cạnh
ông cha, một đời liệt sĩ. Tất cả đă chết cho lư tưởng quốc
gia, sống vinh quang và yên nghỉ trong danh dự.
Người lính VNCH trong suốt hai mươi năm binh lửa
cũng vậy, đă phơi gan trải mật để bảo vệ cho đất nước
và mạng sống của đồng bào, bị cọng sản quốc tế Bắc Việt
xâm lăng giết hại. Tóm lại gần hết cuộc chiến, ở đâu có cọng
sản khủng bố cướp bóc giết hại dân lành, là ở đó có sự diện
của người lính Miền Nam. Ở đâu có bóng cờ vàng ba sọc đỏ, là ở
đó người dân trong vùng chiến nạn, t́m đủ mọi cách trốn thoát sự
kềm kẹp của giặc cộng, để trở về vùng quốc gia, nhờ che chở
đùm bọc. Ai có làm lính tác chiến hay người cán bộ áo đen B́nh Định Nông
Thôn, Cán Bộ Xă Hội..mới biết được thế nào là nổi thống khổ,
trên đe dưới búa, cá nằm giữa dao thớt, người dân tay không hứng hai lằn
đạn bạn thù, của người VN trong thời ly loạn. Có là người dân bị
kẹt trong vùng xôi đậu, lửa khói bom đạn, mới thấu hiểu đời
người lính gian khổ chết chóc muôn trùng. Có là người dân quèn, nghèo sống đời
cay cực, mới thương xót cho cảnh ba đồng, ba cộc, của kiếp lính Miền
Nam.
Trong nổi chịu đựng hy sinh âm thầm nhưng thảm
nhất là người lính đă không bao giờ được một lời an ủi tử
tế của hậu phương, để yên tâm tiếp tục cầm súng giết giặc
bảo vệ cho người dân. Trái lại họ c̣n bị muôn ngàn bất hạnh đeo
đuổi suốt cuộc chiến. Thật vậy, khi cầm súng th́ cô đơn, nửa
đường bị hậu phương, đồng minh và lănh đạo phản bội
bán đứng. Ngày trở về th́ bị giặc trả thù đầy đoạ, rồi
chết thầm trong đói nghèo tủi nhục.
Tiếp tay với những tâm hồn thác loạn, ăn cơm quốc
gia thờ ma cọng sản, là bọn báo chí quốc tế bất tài, a dua, xu thời. Nhờ
vậy mà cọng sản Bắc Việt, mới có cơ hội tung hoành một ḿnh một
cơi, thao túng vẽ vời huyền thoại, bóp mép lịch sử, để đầu độc
các thế hệ VN đang sống trong sự kềm kẹp của chế độ bảo
tàn, độc đảng. Nhưng rồi gieo gió th́ phải gặt bảo, chính sự khoắc
lác dại khờ trên, đă đưa toàn bộ đảng cọng sản VN ch́m trong cái vũng
bùn ô nhục, khi bí mật lịch sử lần lượt được mọi phe phái bật
mí và hồi tưởng.
Nhưng người lính VNCH từ trước tới nay chỉ
biết có cầm súng để chiến đấu giữ nước và bảo vệ sinh
mạng cho người khác, chứ không quen viết lịch sử để ca tụng một
chiều. Cho nên nếu có được một tiếng cảm ơn hay sự hồi phục
danh dự, th́ đó cũng chỉ là sự phản tỉnh của thế giới tự do
khi đă biết được sự thật cùng ư nghĩa của cuộc chiến mà người
Miền Nam phải bán mạng để chống ngăn giặc Bắc xâm lăng tới
giờ phút cuối cùng. Ngoài ra c̣n có sự tưởng tiếc muộn màng của đồng
bào hậu phương, đối với người chiến sĩ VNCH, khi chính bản thân
và gia đ́nh người dân, qua cuộc đổi đời, cũng đă trở thành nạn
nhân tận tuyệt, của một chế độ bạo tàn, của những con người
không có nhân tính, mà hôm qua chính người dân coi như thần thành, nên đă công khai giúp và theo
chúng, đâm sau lưng đồng đội, đồng bào ḿnh.
+ NGƯỜI LÍNH VNCH BỊ TRÍ THỨC THIÊN TẢ ĐÂM SAU LƯNG :
Trong lúc đất nước đang lâm nguy v́ giặc xâm lăng phương
Bắc, trong lúc gần hết thanh niên nam nữ thuộc mọi tầng lớp của xă hội
miền Nam, không phân biệt sang hèn, kinh thượng, bỏ nhà, bỏ lớp, bỏ hết
tương lai của tuổi trẻ và đời người để lên đường
ra biên cương chống giặc thù. Giữa lúc đất nước lầm than, muôn người
khốn khổ v́ chiến tranh do Hồ Chí Minh và cọng sản mang từ Liên Xô-Trung Cộng
vào để dầy xéo non sông tổ quốc, th́ tại hậu phương Miền Nam có một
số người tự nhận ḿnh là trí thức, giáo sư, tu sĩ, hầu hết đều
đang độ xuân th́, mập mạnh nhưng lại t́m cách đứng bên lề cuộc
chiến bằng đủ mọi lư do để được hoăn dịch, trốn nghĩa
vụ làm trai trong thời tao loạn. Nếu v́ sợ chết mà trốn đi lính, th́ cũng
c̣n có thể tha thứ nhưng những hạng người này, không bao giờ chịu để
yên cho đồng bào và đất nước ḿnh, đang trăn trở trong cơn đau
bom đạn, hận thù, đói nghèo và ly biệt. Họ hoàn toàn không thông cảm cho ai hết,
ngoài cái lư tưởng đă thu lượm được, qua sách báo tây phương phản
chiến và các kinh điển nhật tụng của thiên đàng xă hội chủ nghĩa,
trong lúc được sống ở hậu phương, thừa mứa vật chất và
thời gian để đâm thọt, phá hoại.
Ngày nay ai cũng biết, cuộc chiến Đông Dương lần
thứ hai (1955-1975) rất đa dạng, phức tạp, khó có thể định nghĩa
cho trọn vẹn. Nói chung tùy theo lư tưởng,ai muốn gọi thế nào cũng đều
có ư nghĩa riêng với người trong cuộc. Cho nên với người Miền Nam VN, th́
đây là một cuộc chiến đấu chống xâm lăng. Cuộc chiến này hoàn toàn
khác biệt với cuộc phân tranh của hai họ Trịnh Nguyễn vào thế kỷ thứ
17, lúc đó chỉ là cuộc tương tàn nồi da xáo thịt để tranh giành quyền
lănh đạo của đất nước. Trái lại cuộc chiến lần này, người
Miền Nam chiến đấu, vừa để tự vệ, vừa bảo vệ phân nửa
mảnh đất VN, để khỏi bị Bắc Việt nhuộm đỏ bằng
chủ thuyết cọng sản. Nhưng với bọn trí thức thiên tả, phản chiến
nằm vùng lúc đó, lại trắng trợn phỉ báng, gọi QLVNCH là lính đánh thuê cho Mỹ.
Chính bọn trí thức thiên tả này, đă lợi dụng tự
do báo chí ngôn luận của VNCH, để viết lách, bôi nhọ, xuyên tạc, tuyên truyền
phá nát hậu phương, đâm sau lưng chiến sĩ tuyền tuyến, đang liều
chết để bảo vệ đồng bào, trong đó có cả sinh mạng kư sinh của
chúng.
+ MỸ BÁN ĐỨNG VNCH CHO CỌNG SẢN :
Bắt đầu từ ngày 13-5-1968, Mỹ và Bắc Việt đă
lén lút đi đêm với nhau tại Paris, để t́m cách đổi chác trên thân xác của
VNCH. Nhưng kẻ cắp gặp bà già, nên dù hằng tuần có gặp nhau, Kissinger và Lê Đức
Thọ vẫn không đạt được một thỏa thuận nào. Theo tiết lộ
mới đây của Kissinger, trong hồi kư ‘ The Kissinger Transcripts ‘, trong đó đă
ghi chép đầy đủ về mọi mánh lới, thủ thuật của Mỹ để
ve văn Trung Cộng, chống lại Liên Xô vào tháng 1-1972. Cũng theo sách dẫn chứng trên, th́
Kissinger đă làm đủ mọi thủ đoạn, để đạt cho được
mục đích. Trong cuộc, VNCH là con vật tế thần, mà cặp Nixon và Kissinger đă
xử dụng, nên cuối cùng dẫn tới sự chấp nhận những điều kiện
phi lư, mà Hoa Kỳ dùng bùa viện trợ, ép buộc VNCH phải kư kết trong bản hiệp
định ngưng bắn năm 1973. Riêng đối với Bắc Việt, mặt thật
cũng đâu có hănh diện ǵ hơn VNCH, trong cuơng vị làm đầy tớ Nga-Tàu. Bởi
vậy, khi Liên Xô thấy Mỹ và Trung Cộng đă liên kết với nhau, chắc chắn
Tàu Cộng sẽ theo Mỹ, bắt VC ngưng bắn có điều kiện. Bởi vậy,
một mặt LX viện trợ tối đa cho Hà Nội, đồng thời ra lệnh cho
VC mở hết mặt trận này tới chiến dịch khác, mà lần cuối cùng là ngày
quốc hận 30-4-1975, đưa cả nước VN trong ba mươi năm đắm
ch́m trong cảnh nghèo đói, lầm than, hận thù v́ vũng bùn ô uế của cái gọi là
thiên đàng xă hội chủ nghĩa.
Người Mỹ đă kư kết hiệp định ngưng bắn
Ba Lê, chỉ với mục đích rút quân và đem tù binh về nước, để Nixon
đắc cử thêm một nhiệm kỳ tổng thống Mỹ và Kissingertiếp tục
giữ chức lớn trong chính quyền Hoa Kỳ. Ngoài mục đích trên, người Mỹ
không cần đếm xỉa ǵ tới tương lai cũng như số phận của
người Việt, nước Việt.
Sau này, khi VNCH đă sụp đổ, nhiều nhân vật quốc
tế liên quan tới cuộc chiến VN, đều phê b́nh sự tắc trách của Hoa Kỳ,
khi dựng lên cái quái thai hiệp định ngưng bắn, để bán đứng đồng
minh của ḿnh. Chính TT. Nixon cũng đă xác nhận lỗi lầm của ḿnh trong tác phẩm
‘ No More VietNam’ rằng tôi đă thấy những vấn đề nan giải của
hiệp định Ba Lê nhưng quan trọng nhất trong thỏa ứơc này là đă
không bắt buộc Hà Nội rút hết bộ đội đă xâm nhập về Bắc. C̣n
M. Gauvin , đại sứ Canada tại Hy Lap, nguyên chủ tịch uỷ hội kiểm soát
quốc tế (CICCS) tại VN, đă tuyên bố ‘ VNCH bi sụp đổ hoàn toàn do quyết
tâm bỏ rơi của Hoa Kỳ. Riêng cái hiệp định ngưng bắn kư kết tại
Ba Lê năm 1973, đă không phản ảnh được ư muốn và nguyện vọng của
người dân Miền Nam, là muốn sống ḥa b́nh và không bao giờ chấp nhận chủ
nghĩa cọng sản, nên ngay từ năm 1954, họ đă phải bỏ miền bắc
để vào Nam, chạy trốn VC’. Nhưng phê b́nh một cách thẳng thắn, là Sir
R.Thompson ‘ Sự sống c̣n của Nam VN, đă bị người Mỹ tước đoạt
hay nói thẳng là bán đứng. Có làm như vậy, Hoa Kỳ mới tránh cho nước ḿnh
bị khỏi bị sâu xé tan nát. Một điều nghịch lư khác là cọng sản Bắc
Việt, bị bó buộc tới bàn hội nghị, không phải để cứu họ,
mà là cứu nước Mỹ. Nên dĩ nhiên Mỹ phải đem đồng minh VNCH ra bán
đứng, để đền ơn cứu mạng ‘.
Ngoài vấn đề phủi tay tại Nam VN sau khi đă đem
được tù binh và hài cốt quân Mỹ về, quốc hội Hoa Kỳ c̣n bội ước,
khi liên tục biểu quyết các đạo luật ngăn cấm can thiệp bằng quân
sự của Mỹ tại Nam VN, cắt giảm dần quân viện, không chịu hoán đổi
quân trang quân dụng, như các thỏa ước đă kư kết . Sự bất công vô lư, đến
đổi Tuỳ Viên Quân Sự (DAO), tại Nam VN, đă phải viết ‘ Người
Lính VNCH do đó, đă phải chấp nhận sống với những nhu cầu, dưới
mức b́nh thường, làm cho tinh thần người chiến sĩ xuống thấp, v́
bị hạn chế các phương tiên ngăn chống giặc ‘. Chỉ có Robert S McNamara,
cựu bộ trưởng quốc pḥng thời TT.John Kenedy, th́ vẫn ngoan cố để
chạy tội, quên hết trách nhiệm của ḿnh, trong tác phẩm ‘ In Retrospect : The Tragedy
and Lessons Of VN ‘, bêu xấu và đổ hết trách nhiệm làm mất nước cho QLVNCH.
Sự thật, khi viết về Quân Lực VNCH, hầu hết các
nhà quân sử trên thế giới cũng như các Sử Gia hiện tại của VN như
Nguyễn Khắc Ngữ, Chánh Đao, Phan Nhật Nam, Ttần Đại Sỹ, Phạm Huấn,
Nguyễn Đức Phương, Phạm Phong Dinh, Trần Gia Phụng, Nguyễn Lư Tưởng..đều
đứng chung trên quan điểm ca tụng tinh thần hy sinh và trách nhiệm của người
lính VNCH, đối với đất nước và đồng bào. Nhờ thiện chiến,
có kỷ luật nghiêm minh, biết bổn phận, nên trong suốt cuộc chiến hai mươi
năm, dù lúc nào VNCH cũng bị Bắc Việt tấn công lén như Tết Mậu Thân 1968,
Mùa Hè 1972..nhưng Họ đă can trường lật ngược hoàn cảnh, để chuyển
thắng thành bại. Hầu hết lính và các cấp chỉ huy ngoài chiến trường,
đă quyết tử trong giờ thứ 25, tới khi được lệnh bắt buông súng
của Dương Văn Minh, mới chịu ră ngủ.
Mới đây có nhiều
tác phẩm được công bố như The Pategon Papers, Fires In The Lake của Frances Fitzgeral,
The Best and The Brightest của Halberstam và nhất là các hồi kư của Kissinger..đều cho
thấy từ khởi đầu cuộc chiền, đến khi tàn cuộc, cho thấy người
Mỹ luôn luôn là đạo diễn chính trong thảm kịch VN. Trong lúc cọng sản Bắc
Việt, được Tập Đoàn Cọng Sản Quốc Tế cả Liên Hiệp Quốc,
viện trợ quân sự thả dàn, th́ QLVNCH bị Hoo Kỳ qua Viện Trợ, chèn ép bắt
bó tay, nên phải chiến đấu trong nghiệt ngă để sinh tồn. Theo Harry H Noyes,
qua tác phẩm ‘ Herdic Allies’, với tư cach là một sĩ quan cao cấp của
Mỹ , đă chiến đấu nhiều năm ngoài mặt trận, bên cạnh QLVNCH, nên
đă có những nhận định rất thẳng thắn, trái ngược với mồm
mép mệng lưỡi bọn nhà báo và chính trị con buôn Mỹ và tây phương. Theo tác giả
trên, th́ thái độ bêuxấu hay bóp méo sự thật, nhắm vào QLVNCH, chẳng qua chỉ
là sự kỳ thị chủng tộc thường thấy của bọn da trắng, lúc
nào cũng tự xem ḿnh là văn minh, đứng trên các dân tộc khác. Một điều quan
trọng khác, là suốt cuộc chiến đẫm máu tại Nam VN, đa số dân tây phương
và Hoa Kỳ, đă bị điệp viên của khối cọng sản, củng như KGB
của Liên Xô, mua chuộc hay tuyên truyền. Do đó lúc nào họ cũng có cảm t́nh với
Bắc Việt, nên cứ bóp méo sự thật, để khinh bỉ VNCH.
Bảo rằng QLVNCH không chịu chiến đấu, trốn trách
nhiệm, chỉ muốn khoán trắng cho quân đội Mỹ, kể cả sự oanh tạc
Miền Bắc, là một ngang ngược và phi lư. Để trả lời, nhiều người
đă hỏi ngược lại người Mỹ rằng ‘ vậy th́ từ năm
1955-1965 và cuối năm 1971-4/1975, khoảng thời gian đó, người Mỹ hoặc chưa
tới hay đă rời VN, vậy ai đă chiến đấu với bộ đội Bắc
Việt ?’. C̣n về vấn đề oanh tạc Miền Bắc, từ đầu tới
cuối có khi nào Hoa Kỳ giao trách nhiệm cho Không Quân VNCH, cũng như chịu cung cấp
cho họ các loại phi cơ chiến đấu tối tân, để chiến đấu
cho có hiệu quả. Một bí mật khác, là người Mỹ dành độc quyền oanh
tạc Miền Bắc, để thi hành lệnh của Hoa Thịnh Đốn, là đem gần
hết số bom đổ xuống biển hay núi rừng không phải là mục tiêu quân sự
cần tiêu diệt. Bởi vậy làm sao dám giao nhiệm cho KQ.VNCH ?
C̣n trong thời gian Mỹ tham chiến tại VN, mở các cuộc
hành quân tiêu diệt cọng sản. Tất cả đều là HÀNH QUÂN HỖN HỢP, giữa
quân ĐồngMinh-Hoa Kỳ và VNCH, tiêu biểu như HQ Cedar Faces tại Vùng Tam Giác Sắt (B́nh
Dương-Hậu Nghĩa), đầu tháng 1-1967, tiếp theo là HQ Toledo, mục đích càn
quét Chiến Khu C và Cục R, do Lực Lượng hỗn hợp, gồm Lữ Đoàn 173
Nhảy Dù-Hoa Kỳ cùng 2 Tiểu Đoàn 33-35/Biệt Động Quân/VNCH đảm trách. Đặc
biệt tại Điện Biên Phủ KHE SANH cuối năm 1967, vẫn có quân VNCH tham dư,
đó là TD37- BDQ, thuộc Liên Đoàn 1/BDQ của Quân Đoàn I.
Sau cuộc
chiến, để chạy tội bán đứng đồng minh, cũng như phản bội
Tổ Quốc và đồng bào ḿnh, Hoa Kỳ và bọn khoa bảng-trí thức thân cộng
Miền Nam, những người muôn năm trong ḍng sử Việt, được bia đời
phong cho danh hiệu là ‘ TRI’ THỨC CHỒN LÙI’, c̣n các lănh tụ cọng sản
như Stalin, Mao Trạch Đông, kể cả Hồ Chí Minh, coi rẻ hơn CỤC PHÂN NGƯỜI
v́ suốt kiếp chẳng làm được một điều ǵ tốt hay ích lợi, để
giúp cho đất nước và đồng bào. Bọn trí thức này theo chân Người Việt
tị nạn khắp các nẻo đường hải ngoại, vẫn sống cao sang quyền
thế như lúc c̣n trà trộn trong các Đại Học, Chùa-Nhà Thờ, Ṭa Báo, trên các trang
sách-thơ, vẫn chứng nào tật nấy, không hề thay đổi lương tâm một
chút ǵ, dù phong trần đă nếm, vinh nhục bề bề và trên hết là vẩn bám vào Người
Việt Tị Nạn Cộng Sản để mà sinh tồn, dù rằng chúng đă nói là ĐĂ
ĐI HẾt BIỂN nhưng lại không dám về sống với Việt Cộng, để
hưởng Vinh Hoa Phú Quư, Tự Do Dân Chủ..trong Xă Nghĩa Thiên Đàng, như chúng hằng
ca tụng.
Chính người Mỹ và bọn trí thức-khoa bảng thân cộng
này, trước sau vẫn đổ trách nhiệm làm sụp đổ Miền Nam cho các cấp
lănh đạo của VNCH. Riêng sự bảo rằng VNCH không có lănh đạo xứng đáng,
ngang cơ để đối đầu với cáo già Hồ Chí Minh của Bắc Việt,
sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm bị hạ sát vào ngày 1-11-1963, là điều suy nghĩ quá đáng
và đâu có khác ǵ việc Mỹ nói QLVNCH không chiến đấu, mà chỉ giao hết cho quân
đội Hoa Kỳ.
Nhưng mai mĩa nhất vẫn là lời xác nhận của Kissinger
, khi cho bách hóa các tai liệu cũ liên 1uan tới chiến cuộc Đông Dương lần
thứ 2 (1960-1975 ) ‘ Mỹ đă chơi với Trung Cộng từ năm 1972, vậy th́
bán Miền Nam VNCH cho Cộng Sản Quốc Tế Bắc Việt, qua Hiệp Định
Paris 1973, cũng đâu có ǵ lạ ? ‘
Sự thật, QLVNCH từ 1960-1975, đă có rất nhiều cấp
chỉ huy tài ba lẫn đạo đức, văn vơ vẹn toàn. Họ được đào
tạo từ các quân trường nổi tiếng nhất vùng Đông Nam Á thời đó như
Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Trường Bộ Binh Thủ Đức,
Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Các Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân
và Hải Quân, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh và Cảnh Sát..cũng như Trường
Đại Học Quân Sự.
Ngày xưa người Lính VN, chiến đấu trong vinh quang, khi
trở về cũng thật hiên ngang, giữa cảnh phu phụ trùng phùng, nồng ấm kết
lại mối t́nh xưa :
‘..xin v́ chàng, xếp bào cỡi giáp
xin v́
chàng giũ lớp phong sương
v́ chàng tay chuốc chén vàng
v́ chàng điểm
phấn đeo hương năo nùng..’
( Chinh Phụ Ngâm – Đặng Trần Côn
và Đoàn Thị Điểm)
Ngày nay người chiến sĩ VNCH không có cái diễm phúc trên, v́
suốt cuộc chiến hai mươi năm, ngoài mặt trận th́ chống trả với
kẻ thù trong nổi cô độc. Khi trở về lại bị kẻ thù đọa đầy,
tù ngục và chết trong uất hận nghẹn ngào.
Thử hỏi trong cơi đời này, có quân đội nào bất
hạnh hơn QLVNCH ? Trong lúc đă có không biết bao nhiêu người hiện nay, đang sống
thản nhiên khắp các nẻo đường hải ngoại, mà hầu hết bản thân
họ hay con cháu, hôm qua vẫn sống nhờ sự bảo bọc của lính. Trong số
này có rất nhiều người đang dấn thân lo chuyện non nước. Không biết
trong tâm tư của họ, có một giây phút nào, do lương tâm xao động, khiến
họ chợt nghĩ tới những người xưa đă VỊ QUỐC VONG THÂN ? Cũng
may hầu hết người Miền Nam, xưa nay vẫn biết ơn người lính năm
nào, nhất là sau ba mươi năm qua, đă biết hết cảnh đổi đời
oan nghiệt.
Xưa NGƯỜI LÍNH chiến đấu anh dũng trong khói lửa
để bảo quốc an dân. Nay những người lính già c̣n sót lại sau cuộc chiến
và lớp hậu duệ của lính năm nào, đă và đang tiếp tục tranh đấu
không ngừng, cho một ngày về QUANG PHỤC QUÊ HƯƠNG được sống thật
với tự do và no ấm, như chúng ta hiện nay đang hưởng tại quê người.
‘..tội
nghiệp, đời trai chưa thỏa chí
sa trường dung ruổi đă phơi
thây
đoàn quân hùng liệt nay về đất
hồn vẫn quanh co giẫm
lối gầy
chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi
mà khóc quê hương
khuất bến bờ
nhớ lúc hát rừng nơi chiến địa
mộng
hoàng hoa, khép giữa hư vô..’
Xin nghiêng ḿnh trước đồng đội đồng bào đă
hy sinh v́ đại nghĩa Dân Tộc Việt. Cũng xin chân thành biết ơn Quư Ân nhân đồng
hương khắp mọi nẻo đường lưu xứ, đă và đang hướng
về những người lính cũ ngày xưa, giờ họ là Quả phụ, cô nhi và thương
phế binh VNCH. đang kẹt ở địa ngục xă nghĩa.
Người lính cũ giờ này không cần ǵ hết v́ cái ǵ họ
cũng đă có, kể cả t́nh thương yêu cuối đời mà đồng bào cả
nước đă dành cho họ, như trong những truyện ngắn của nhà văn trong
nước Vũ Ngọc Tiến vừ a được phổ biến. -/-
Xóm Cồn
tháng 6-2006
HỒ ĐINH